Hiển thị các bài đăng có nhãn Bình Luận - Quan Điểm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bình Luận - Quan Điểm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2016

Ảnh chụp màn hình VTV.
Ảnh chụp màn hình VTV.
Tôi là người làm báo, tôi cố gắng khách quan trong nhận thức, đánh giá và hoạt động của mình. Đặc biệt, tôi quan tâm, theo dõi cách hành xử của chúng ta đối với người hàng xóm Trung Quốc. Khi xẩy ra cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc vào 1979, ít người Việt Nam còn lơ mơ, ảo tưởng trong quan hệ với Trung Quốc. Trong bối cảnh như vậy, chúng ta đã có những hành động sai lầm. Ví dụ, sau năm 1979, hầu như tất cả các cơ sở dạy tiếng Trung ở Việt Nam đã dừng hoạt động. May thay, lúc đó Trường Đại học Ngoại ngữ quân sự đón hẳn Khoa Tiếng Trung của Đại học Ngoại ngữ Hà Nội vào trường (lúc đó còn đóng ở Bình Đà, Hà Đông). Đây là một hành động sáng suốt vì muốn hiểu đối thủ thì phải biết ngôn ngữ của chúng.

Tháng 12 – 1988, tôi được cử lên Lạng Sơn với mục đích giúp Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn viết bài đang trên Tạp chí Cộng sản nhân 10 năm chiến tranh biên giới. Ông Đinh Nho Liêm – Bộ trưởng biệt phái ở Bộ Ngoại giao (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lúc này là ông Nguyễn Cơ Thạch) gặp tôi và đưa ra yêu cầu: Viết kỷ niệm 10 năm chiến tranh nhưng mục đích là vãn hồi hoà bình, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi cho rằng, tư tưởng này phù hợp vào lúc bấy giờ và đây cũng là việc làm sáng suốt.

Sau này, dư luận xã hội Việt Nam rất quan tâm đến những động thái của chúng ta trong quan hệ với Trung Quốc. Nhiều người không hài lòng vì chúng ta nhượng bộ họ nhiều quá. Tôi cũng thấy thế nhưng không dám lên tiếng vì không am hiểu những lĩnh vực mà chúng ta nhượng bộ.

Song, có mấy sự kiện xẩy ra trong “làng” báo khiến tôi khó hiểu và đau đớn.

Đầu tiên, có thể kể đến việc tấu nhạc Trung Quốc trước khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên phát biểu ý kiến trong Chương trình “Khát vọng đoàn tụ” vào dịp Ngày Thương binh – Liệt sĩ năm 2015. Đó là bài hát “Ca ngợi tổ quốc” nổi tiếng của Trung Quốc, được xem là “quốc ca thứ hai” của họ. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974 – 1987), gọi việc làm này “bố láo và bậy bạ”. Chương trình này do Trung tâm Phát thanh và Truyền hình quân đội thực hiện. Sai phạm khủng khiếp là vậy nhưng những người làm trực tiếp làm chương trình chỉ bị xử lý qua loa, nghe đâu có người được thăng quân hàm.

Mới đây, chương trình diễn ra tối 11-6, tại Nhà hát lớn Hà Nội, do báo Quân đội nhân dân phối hợp với Tổng công ty Cổ phần dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Nam được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV2 – Đài truyền hình Việt Nam lại sử dụng một bức tranh cổ động được cho là của Trung Quốc làm phông nền. Bức tranh có nội dung học tập trước tác Mao Trạch Đông được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc.

Sau hai sự kiện này, tôi cho rằng, có những kẻ sùng bái Trung Quốc đang hoạt động trong “làng” báo Việt Nam, mà cụ thể là ở mảng báo chí quân đội.

Việc này làm tôi nhớ đến sự kiện đau lòng mà giới quân sự vẫn xì xầm với nhau là đã có kẻ báo tin cho Trung Quốc kế hoạch tấn công của ta ở Thanh Thuỷ (Hà Giang) vào tháng 7 – 1984, khiến quan ta thiệt hại nặng nề: hơn 3.000 chiến sĩ hi sinh trong một ngày.

Phải chăng hiện nay có những kẻ làm báo đang có dã tâm phục vụ Trung Quốc? Tôi đề nghị các cơ quan chức năng phải xem xét nghiêm túc chuyện này! Ít nhất, phải bắt họ giải thích cặn kẽ họ làm việc này với mục đích gì? Việc tấu nhạc Trung Quốc, đưa tranh cổ động của Trung Quốc lên những chương trình nghiêm túc của ta để làm gì?

Thật không hiểu nổi là lãnh đạo mảng báo chí của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam lại để cho họ làm những việc này trong các chương trình truyền hình trực tiếp!

H1
Chương trình “Khát vọng đoàn tụ”. Nguồn: internet
 Hồ Bất Khuất

(FB Hồ Bất Khuất)
18:47 Unknown
Ảnh chụp màn hình VTV.
Ảnh chụp màn hình VTV.
Tôi là người làm báo, tôi cố gắng khách quan trong nhận thức, đánh giá và hoạt động của mình. Đặc biệt, tôi quan tâm, theo dõi cách hành xử của chúng ta đối với người hàng xóm Trung Quốc. Khi xẩy ra cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc vào 1979, ít người Việt Nam còn lơ mơ, ảo tưởng trong quan hệ với Trung Quốc. Trong bối cảnh như vậy, chúng ta đã có những hành động sai lầm. Ví dụ, sau năm 1979, hầu như tất cả các cơ sở dạy tiếng Trung ở Việt Nam đã dừng hoạt động. May thay, lúc đó Trường Đại học Ngoại ngữ quân sự đón hẳn Khoa Tiếng Trung của Đại học Ngoại ngữ Hà Nội vào trường (lúc đó còn đóng ở Bình Đà, Hà Đông). Đây là một hành động sáng suốt vì muốn hiểu đối thủ thì phải biết ngôn ngữ của chúng.

Tháng 12 – 1988, tôi được cử lên Lạng Sơn với mục đích giúp Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn viết bài đang trên Tạp chí Cộng sản nhân 10 năm chiến tranh biên giới. Ông Đinh Nho Liêm – Bộ trưởng biệt phái ở Bộ Ngoại giao (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lúc này là ông Nguyễn Cơ Thạch) gặp tôi và đưa ra yêu cầu: Viết kỷ niệm 10 năm chiến tranh nhưng mục đích là vãn hồi hoà bình, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi cho rằng, tư tưởng này phù hợp vào lúc bấy giờ và đây cũng là việc làm sáng suốt.

Sau này, dư luận xã hội Việt Nam rất quan tâm đến những động thái của chúng ta trong quan hệ với Trung Quốc. Nhiều người không hài lòng vì chúng ta nhượng bộ họ nhiều quá. Tôi cũng thấy thế nhưng không dám lên tiếng vì không am hiểu những lĩnh vực mà chúng ta nhượng bộ.

Song, có mấy sự kiện xẩy ra trong “làng” báo khiến tôi khó hiểu và đau đớn.

Đầu tiên, có thể kể đến việc tấu nhạc Trung Quốc trước khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên phát biểu ý kiến trong Chương trình “Khát vọng đoàn tụ” vào dịp Ngày Thương binh – Liệt sĩ năm 2015. Đó là bài hát “Ca ngợi tổ quốc” nổi tiếng của Trung Quốc, được xem là “quốc ca thứ hai” của họ. Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974 – 1987), gọi việc làm này “bố láo và bậy bạ”. Chương trình này do Trung tâm Phát thanh và Truyền hình quân đội thực hiện. Sai phạm khủng khiếp là vậy nhưng những người làm trực tiếp làm chương trình chỉ bị xử lý qua loa, nghe đâu có người được thăng quân hàm.

Mới đây, chương trình diễn ra tối 11-6, tại Nhà hát lớn Hà Nội, do báo Quân đội nhân dân phối hợp với Tổng công ty Cổ phần dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Nam được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV2 – Đài truyền hình Việt Nam lại sử dụng một bức tranh cổ động được cho là của Trung Quốc làm phông nền. Bức tranh có nội dung học tập trước tác Mao Trạch Đông được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc.

Sau hai sự kiện này, tôi cho rằng, có những kẻ sùng bái Trung Quốc đang hoạt động trong “làng” báo Việt Nam, mà cụ thể là ở mảng báo chí quân đội.

Việc này làm tôi nhớ đến sự kiện đau lòng mà giới quân sự vẫn xì xầm với nhau là đã có kẻ báo tin cho Trung Quốc kế hoạch tấn công của ta ở Thanh Thuỷ (Hà Giang) vào tháng 7 – 1984, khiến quan ta thiệt hại nặng nề: hơn 3.000 chiến sĩ hi sinh trong một ngày.

Phải chăng hiện nay có những kẻ làm báo đang có dã tâm phục vụ Trung Quốc? Tôi đề nghị các cơ quan chức năng phải xem xét nghiêm túc chuyện này! Ít nhất, phải bắt họ giải thích cặn kẽ họ làm việc này với mục đích gì? Việc tấu nhạc Trung Quốc, đưa tranh cổ động của Trung Quốc lên những chương trình nghiêm túc của ta để làm gì?

Thật không hiểu nổi là lãnh đạo mảng báo chí của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam lại để cho họ làm những việc này trong các chương trình truyền hình trực tiếp!

H1
Chương trình “Khát vọng đoàn tụ”. Nguồn: internet
 Hồ Bất Khuất

(FB Hồ Bất Khuất)
Con người ta sống trong xã hội này, khuyết điểm lớn nhất là không biết làm sao để biểu hiện sự tôn trọng của mình với người khác. Cho dù người ta lựa chọn cuộc sống thế nào, lý tưởng ra sao, chúng ta cũng đều thích lôi ra phán xét, bình phẩm, chỉ trích.

Hình minh họa
Tôi rất ấn tượng với một chia sẻ đầy mỉa mai của một độc giả nhân vụ BTV Tạ Bích Loan bị cộng đồng mạng xã hội "ném đá". Người đó nói rằng: "Cuộc sống ảo thật tuyệt vời. Thứ nhất người ta được viết (nói) mọi thứ mà không sợ ai xen vào, thứ hai được viết thoải mái, thứ ba được tỏ ra thông thái và nổi tiếng, và thứ tư là để lấp kín sự trống rỗng bên trong con người họ". Tôi trích dẫn nó ở đây không biết những người đang chửi rủa cá nhân Tạ Bích Loan và những người tham gia chương trình "60 phút mở" có cảm thấy giật mình không? Có nhận thấy mình là ai trong số bốn dạng tham gia mạng xã hội được liệt kê ở trên không?

Tôi tin là có, có quá đi ấy chứ. Nhưng họ không bao giờ dám "đấu tố" với bản thân mình, ngược lại họ cũng lao vào đám đông giận dữ để thể hiện mình cùng phía với họ, phê phán và lên án cái xấu cái sai của đối tượng đang bị chỉ trích.

"Chân lý thuộc về đám đông" - bao năm qua chúng ta cứ duy trì mãi cái lối tư duy theo lối mòn ấy mà không chịu nghĩ khác đi. Chúng ta lười tìm hiểu, chúng ta lười suy nghĩ, chúng ta lười vận động, chúng ta lười lắng nghe và chúng ta không muốn khác biệt! Chính vì thế cho nên chúng ta hùa theo số đông để thể hiện quan điểm của cá nhân mình. Điều đó dẫn đến vô số những sai lầm, chúng ta bị lôi kéo, chúng ta bị lợi dụng, chúng ta bị sa lầy và chúng ta bị dắt mũi. Bởi ai? Bởi những kẻ nói trên. Những kẻ muốn tỏ ra mình thông thái, những kẻ thích thể hiện, những kẻ muốn nổi tiếng và những kẻ trống rỗng trong tâm hồn.

Và chúng ta đang tiếp tay cho họ để vùi dập một cá nhân, mà cá nhân ấy thậm chí chúng ta không hề biết về họ chứ chưa nói gì đến việc hiểu về họ. Chúng ta chỉ nhìn thấy và nghe nhắc đến.

Như thế chúng ta có công bằng hay không? Khi mà ai cũng muốn trở thành quan toà phán xét và kết tội người khác. Trong khi chúng ta thậm chí chưa hề mở một phiên toà cho chính mình, để tự hỏi mình đã đúng hay chưa?

Như trong vụ việc "60 phút mở" phát sóng về nội dung "Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?" và "Người ta làm từ thiện vì ai". Buổi phát sóng đầu tiên khiến khán giả "sôi máu" lên vì một MC bị vùi dập bởi những quan điểm trái chiều, buổi phát sóng thứ hai thì gây lên một cuộc tranh cãi kịch liệt khi một trong những vị khách mời nói đại ý rằng, tặng quần áo ấm cho trẻ vùng cao sẽ mất đi bản sắc dân tộc.

À, nếu nói như thế thì sai rồi, ai cũng biết điều đó là sai rồi. Nhưng chẳng lẽ toàn bộ chương trình 60 phút ấy chúng ta chỉ chú ý mỗi điều đó? Thế những quan điểm tích cực đâu sao chúng ta không hoan nghênh và cổ vũ cho họ? Chúng ta thấy những người làm từ - thiện - một - cách - thực - sự họ có giận giữ không? Không hề, họ cũng thấy chương trình không cấm họ tiếp tục làm từ thiện, chỉ những người hời hợt bị chạm nọc mới nhảy dựng lên như thế.

Kỳ lạ là chúng ta lại thích những cái nghịch lý, những cái đi ngược với chuẩn mực hơn, nó đã thấm sâu vào ý nghĩ chúng ta rồi. Bởi chúng ta thích bới móc chỉ trích nhau hơn là động viên nhau nhiều lắm. Thậm chí chúng ta bỏ ngoài tai và không lắng nghe người trong cuộc nói gì. Như MC Phan Anh hay ca sĩ Thái Thuỳ Linh có nói, trước khi tham gia chương trình họ được hỏi về quan điểm đối với nội dung mà ban biên tập chương trình chuẩn bị và họ được dặn khi tham gia hãy giữ quan điểm đó, không kịch bản, không dàn dựng... Vậy chúng ta phải hiểu là những khách mời khác cũng tương tự, những người có cùng quan điểm được sắp xếp một "phe", và "phe" kia khác quan điểm sẽ được chất vấn trực tiếp. Người giữ cho mạch chương trình được thông suốt và không bị đi vào ngõ cụt chính là BTV Tạ Bích Loan, cô ấy sẽ phải kích để mỗi bên đưa ra quan điểm của mình để đi đến kết quả chung, và kết quả đó chính là mục đích của chương trình với từng nội dung hay vấn đề được thảo luận.

Vậy Tạ Bích Loan có lỗi không? Tôi thì thấy cô ấy chẳng có lỗi gì cả. Lỗi là ở chúng ta. Chúng ta thuộc về "chân lý đám đông", lười đào sâu suy nghĩ, lười tạo lên sự khác biệt. Và vô tình chúng ta bao che cho những hành động sai trái và vô đạo đức. Như trong câu chuyện từ thiện, chúng ta bao che cho một gã lạm dụng tình dục trẻ em trong một chuyến từ thiện, chúng ta bao che cho những hành động từ thiện thì ít vui chơi thì nhiều, chúng ta bao che cho cả những việc lấy việc từ thiện để PR cho sản phẩm hay hình ảnh cá nhân, chúng ta cũng bao che cả cho những tập đoàn lợi dụng việc từ thiện để phân phát những sản phẩm cận date (sắp hết hạn sử dụng)... Như thế, người ta từ thiện vì ai???

Đã đến lúc chúng ta phải khác đi, chúng ta phải tách khỏi đám đông và tạo ra sự khác biệt. Và tôi thấy chương trình "60 phút mở" và chị Tạ Bích Loan hay ấy chứ. Họ nhắc chúng ta phải sống một cách "tỉnh táo, có trách nhiệm và đừng im lặng". Chúng ta còn bất mãn điều gì hả "chân lý đám đông"?

Flyingdance

(Blog Phước Béo)
05:11 Unknown
Con người ta sống trong xã hội này, khuyết điểm lớn nhất là không biết làm sao để biểu hiện sự tôn trọng của mình với người khác. Cho dù người ta lựa chọn cuộc sống thế nào, lý tưởng ra sao, chúng ta cũng đều thích lôi ra phán xét, bình phẩm, chỉ trích.

Hình minh họa
Tôi rất ấn tượng với một chia sẻ đầy mỉa mai của một độc giả nhân vụ BTV Tạ Bích Loan bị cộng đồng mạng xã hội "ném đá". Người đó nói rằng: "Cuộc sống ảo thật tuyệt vời. Thứ nhất người ta được viết (nói) mọi thứ mà không sợ ai xen vào, thứ hai được viết thoải mái, thứ ba được tỏ ra thông thái và nổi tiếng, và thứ tư là để lấp kín sự trống rỗng bên trong con người họ". Tôi trích dẫn nó ở đây không biết những người đang chửi rủa cá nhân Tạ Bích Loan và những người tham gia chương trình "60 phút mở" có cảm thấy giật mình không? Có nhận thấy mình là ai trong số bốn dạng tham gia mạng xã hội được liệt kê ở trên không?

Tôi tin là có, có quá đi ấy chứ. Nhưng họ không bao giờ dám "đấu tố" với bản thân mình, ngược lại họ cũng lao vào đám đông giận dữ để thể hiện mình cùng phía với họ, phê phán và lên án cái xấu cái sai của đối tượng đang bị chỉ trích.

"Chân lý thuộc về đám đông" - bao năm qua chúng ta cứ duy trì mãi cái lối tư duy theo lối mòn ấy mà không chịu nghĩ khác đi. Chúng ta lười tìm hiểu, chúng ta lười suy nghĩ, chúng ta lười vận động, chúng ta lười lắng nghe và chúng ta không muốn khác biệt! Chính vì thế cho nên chúng ta hùa theo số đông để thể hiện quan điểm của cá nhân mình. Điều đó dẫn đến vô số những sai lầm, chúng ta bị lôi kéo, chúng ta bị lợi dụng, chúng ta bị sa lầy và chúng ta bị dắt mũi. Bởi ai? Bởi những kẻ nói trên. Những kẻ muốn tỏ ra mình thông thái, những kẻ thích thể hiện, những kẻ muốn nổi tiếng và những kẻ trống rỗng trong tâm hồn.

Và chúng ta đang tiếp tay cho họ để vùi dập một cá nhân, mà cá nhân ấy thậm chí chúng ta không hề biết về họ chứ chưa nói gì đến việc hiểu về họ. Chúng ta chỉ nhìn thấy và nghe nhắc đến.

Như thế chúng ta có công bằng hay không? Khi mà ai cũng muốn trở thành quan toà phán xét và kết tội người khác. Trong khi chúng ta thậm chí chưa hề mở một phiên toà cho chính mình, để tự hỏi mình đã đúng hay chưa?

Như trong vụ việc "60 phút mở" phát sóng về nội dung "Chia sẻ trên mạng xã hội để làm gì?" và "Người ta làm từ thiện vì ai". Buổi phát sóng đầu tiên khiến khán giả "sôi máu" lên vì một MC bị vùi dập bởi những quan điểm trái chiều, buổi phát sóng thứ hai thì gây lên một cuộc tranh cãi kịch liệt khi một trong những vị khách mời nói đại ý rằng, tặng quần áo ấm cho trẻ vùng cao sẽ mất đi bản sắc dân tộc.

À, nếu nói như thế thì sai rồi, ai cũng biết điều đó là sai rồi. Nhưng chẳng lẽ toàn bộ chương trình 60 phút ấy chúng ta chỉ chú ý mỗi điều đó? Thế những quan điểm tích cực đâu sao chúng ta không hoan nghênh và cổ vũ cho họ? Chúng ta thấy những người làm từ - thiện - một - cách - thực - sự họ có giận giữ không? Không hề, họ cũng thấy chương trình không cấm họ tiếp tục làm từ thiện, chỉ những người hời hợt bị chạm nọc mới nhảy dựng lên như thế.

Kỳ lạ là chúng ta lại thích những cái nghịch lý, những cái đi ngược với chuẩn mực hơn, nó đã thấm sâu vào ý nghĩ chúng ta rồi. Bởi chúng ta thích bới móc chỉ trích nhau hơn là động viên nhau nhiều lắm. Thậm chí chúng ta bỏ ngoài tai và không lắng nghe người trong cuộc nói gì. Như MC Phan Anh hay ca sĩ Thái Thuỳ Linh có nói, trước khi tham gia chương trình họ được hỏi về quan điểm đối với nội dung mà ban biên tập chương trình chuẩn bị và họ được dặn khi tham gia hãy giữ quan điểm đó, không kịch bản, không dàn dựng... Vậy chúng ta phải hiểu là những khách mời khác cũng tương tự, những người có cùng quan điểm được sắp xếp một "phe", và "phe" kia khác quan điểm sẽ được chất vấn trực tiếp. Người giữ cho mạch chương trình được thông suốt và không bị đi vào ngõ cụt chính là BTV Tạ Bích Loan, cô ấy sẽ phải kích để mỗi bên đưa ra quan điểm của mình để đi đến kết quả chung, và kết quả đó chính là mục đích của chương trình với từng nội dung hay vấn đề được thảo luận.

Vậy Tạ Bích Loan có lỗi không? Tôi thì thấy cô ấy chẳng có lỗi gì cả. Lỗi là ở chúng ta. Chúng ta thuộc về "chân lý đám đông", lười đào sâu suy nghĩ, lười tạo lên sự khác biệt. Và vô tình chúng ta bao che cho những hành động sai trái và vô đạo đức. Như trong câu chuyện từ thiện, chúng ta bao che cho một gã lạm dụng tình dục trẻ em trong một chuyến từ thiện, chúng ta bao che cho những hành động từ thiện thì ít vui chơi thì nhiều, chúng ta bao che cho cả những việc lấy việc từ thiện để PR cho sản phẩm hay hình ảnh cá nhân, chúng ta cũng bao che cả cho những tập đoàn lợi dụng việc từ thiện để phân phát những sản phẩm cận date (sắp hết hạn sử dụng)... Như thế, người ta từ thiện vì ai???

Đã đến lúc chúng ta phải khác đi, chúng ta phải tách khỏi đám đông và tạo ra sự khác biệt. Và tôi thấy chương trình "60 phút mở" và chị Tạ Bích Loan hay ấy chứ. Họ nhắc chúng ta phải sống một cách "tỉnh táo, có trách nhiệm và đừng im lặng". Chúng ta còn bất mãn điều gì hả "chân lý đám đông"?

Flyingdance

(Blog Phước Béo)
Năm 2002, trong đoàn khách tham quan Hoa Kỳ, chúng tôi được đưa đến gặp Bob Kerrey tại văn phòng của ông. Lúc ấy tôi chỉ biết ông từng tham chiến tại Việt Nam, là Thượng nghị sỹ, nhà giáo dục, ứng cử viên chức tổng thống Hoa Kỳ. Ngoài ra tôi không biết gì khác về Bob. Vì thế tôi cứ lấy làm lạ khi nhận ra có nét gì đó giống như sự mặc cảm của ông khi đối diện với đám nhà văn nhà báo “lau nhau” chúng tôi. Rất khó diễn đạt ánh mắt của ông. Khi chúng tôi tặng ông mấy miếng thêu, nói là sản phẩm làm bằng tay của nông dân Việt Nam, thì ông bất ngờ lúng túng, cứ hỏi đi hỏi lại là nó được nông dân làm bằng tay, họ sống ở vùng nào, cứ như chúng tôi nói dối ông.

Thực ra, đấy là cách ông che giấu sự bối rối. Một người từng là ứng cử viên chức tổng thống Mỹ, sao lại có tâm trạng lạ như vậy, trước những kẻ vô danh tiểu tốt là chúng tôi?


https://sohanews2.vcmedia.vn/zoom/459_296/2016/co-ninh1-1464791413066-0-41-371-546-crop-1464791699323.jpg
Bà Tôn Nữ Thị Ninh
Mãi khi về nước, tìm hiểu kỹ lai lịch của ông, tôi mới phần nào hiểu tại sao ông có tâm trạng đó. Cũng như mãi sau tôi mới nhận ra, tại sao những cựu chiến binh đón chúng tôi cứ tốt với chúng tôi một cách không thể hiểu nổi, đôi khi khiến chúng tôi thấy ngại. Hóa ra họ tận dụng mọi cơ hội để sám hối với người Việt, về những gì đã làm trong quá khứ. Tất nhiên không phải ai trong số họ cũng làm như vậy, tôi biết rõ điều này.

Giờ thì Bob là ai, mọi người đều đã rõ. Vì sao có cuộc tranh cãi ầm ỹ về chức vụ hiện nay của ông tại Đại học Fulbright Việt Nam, cũng chẳng cần phải giải thích thêm. Trong bài viết này, thể hiện sự quan tâm đến “vụ việc” Bob Kerrey, tôi chỉ xin nói đôi điều suy nghĩ của mình về bức thư ngỏ của bà Tôn Nữ Thị Ninhbài trả lời phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Hai bài này hoàn toàn độc lập, không phải hai tác giả này tranh luận với nhau), cùng đăng trên VietNamNet, một cách ngắn gọn nhất có thể.

Tôi phải nói ngay là tôi thuộc số người ủng hộ ông Thiều, cũng tức là không cùng quan điểm với bà Ninh.

Nhưng ở đây tôi sẽ không bàn đến chuyện ai đúng ai sai. Tôi chỉ muốn nói về cách mà các nhà trí thức đưa ra quan điểm của mình.

Tôi rất không thích cách của bà Tôn Nữ Thị Ninh. Ngay từ tên của bức thư, dường như bà đã ngầm xác định (hoặc nó khiến độc giả sẽ nghĩ như vậy) bà đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Không ai đủ tư cách làm điều đó khi ở vào vị thế chỉ được phép trình bày quan điểm cá nhân của mình. Có thể đây là thói quen nghề nghiệp cũ của bà chăng?

Tôi cũng không thích cách bà vạch vòi về nguồn gốc số tiền 20 triệu USD dùng cho dự án Đại học Fulbright Việt Nam. Mục đích của việc này chỉ nhằm chứng minh Bob Kerrey không có công lao gì trong việc huy động số tiền ấy. Có thể sự thật là như vậy nhưng động cơ của bà là gì? Nếu định nói cho rõ một chuyện, thì những giải thích của bà lại quá rối rắm khiến bạn đọc chẳng hiểu điều gì ẩn khuất trong số tiền ấy. Tôi tin là nhiều người cũng không hiểu rõ giống như tôi. Nhưng cứ cho là tôi chậm hiểu, thì vẫn còn một câu hỏi: Vậy ai (nếu thực sự Bob không có vai trò) đã tác động để số tiền đó (chắc chắn là của Mỹ, dù dưới bất cứ hình thức nào) bò về Fulbright Việt Nam?

Tôi tôn trọng quan điểm cá nhân của tác giả trong bức thư ngỏ, nhưng dứt khoát nó không phải là quan điểm của đa số người Việt như cách thức được trình bày. Ngữ điệu của bức thư như là một lời lên án chính trị nhằm vào ai đó không nghĩ giống mình, hơn là “mỗi người hãy nói hết ra điều mình nghĩ” - như đề nghị của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Tôi phải nói thật tâm trạng của mình là tôi rất thất vọng về thái độ này.

Sự hằn học, đố kị, ngạo mạn, hiếu thắng không bao giờ là văn hóa trao đổi. Vì thế tôi đánh giá cao bài trả lời của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Ông nhà thơ này chỉ tha thiết đề nghị mọi người lắng nghe ông, rồi tự mỗi người sẽ đưa ra quyết định chứ ông không hề áp đặt bất cứ quan điểm nào.

Trong số hơn một trăm phản hồi về bức thư ngỏ, có người tỏ ý nghi ngờ bà Ninh từng thất bại trong một dự án giáo dục, giờ không muốn thấy người khác thành công. Tôi cố gắng để không tin vào điều này. Nhưng tôi cứ không cưỡng được ý nghĩ, hình như tác giả ác cảm với Bob Kerrey không phải vì lý do ông ấy từng tham chiến tại Việt Nam. Bà Ninh thừa hiểu rằng, trong chiến tranh, kẻ tội phạm đáng nguyền rủa nhất không phải là người lính trên chiến trường. Nhưng tôi không bình luận về thái độ ấy của bà.

Cuối cùng, liệu có cần phải trình diễn quan điểm chính trị một cách đao to búa lớn thì mới chứng tỏ được mình đang có trách nhiệm với đất nước? Tôi tuyệt đối nghi ngờ sự chân thành, vô tư của những người làm như vậy. Một người cả đời không nói lời nào về thái độ chính trị, không quảng bá tình yêu nước của mình, có thể lại là người yêu nước sâu sắc nhất.

Tiện thể tôi muốn nói thêm vài suy nghĩ cá nhân về vấn đề Bob Kerrey. Qua hai bài viết, của hai nhân vật nổi tiếng mà tôi đều ngưỡng mộ về sự hiểu biết cũng như uy tín xã hội, liên quan đến Bob, thấy rõ là chúng ta còn rất lâu nữa mới không bị chia rẽ bởi quá khứ. Đó cũng là chuyện có thể hiểu được và chẳng ai đáng bị phê phán khi theo hoặc không theo quan điểm của người này, người kia. Vì thế, tôi muốn đưa ra một đề xuất: Hãy để chính tương lai lựa chọn những gì nó thấy tốt nhất cho nó. Ý tôi là, trong câu chuyện chưa có hồi kết này, hãy hỏi những người đang hoặc sắp thành sinh viên, xem ý kiến của họ thế nào? Họ đủ trường thành để trả lời một cách đúng đắn và chịu trách nhiệm về hiểu biết lịch sử của họ. Tôi nảy ra suy nghĩ này sau khi đọc hơn một trăm phản hồi về bài của bà Tôn Nữ Thị Ninh trên VietNamNet. Căn cứ vào cách xưng hô, tôi nhận ra quá nửa trong số các phản hồi là của những người trẻ. Họ chín chắn, hiểu rõ vấn đề và thể hiện văn hóa trao đổi cao một cách đáng kinh ngạc. Chính từ sự nhận biết đó và căn cứ vào quá nửa số phản hồi, càng khiến tôi tin rằng, học vấn, kinh nghiệm sống và sự sáng suốt không phải lúc nào và với ai cũng đồng hành cùng nhau.

Về phần mình, tôi nghĩ thế này: Một đất nước mà để quá khứ quyết định mọi chuyện, là một đất nước đi giật lùi.

Tạ Duy Anh

Tác giả gửi BVN.
(Bauxite)
04:00 Unknown
Năm 2002, trong đoàn khách tham quan Hoa Kỳ, chúng tôi được đưa đến gặp Bob Kerrey tại văn phòng của ông. Lúc ấy tôi chỉ biết ông từng tham chiến tại Việt Nam, là Thượng nghị sỹ, nhà giáo dục, ứng cử viên chức tổng thống Hoa Kỳ. Ngoài ra tôi không biết gì khác về Bob. Vì thế tôi cứ lấy làm lạ khi nhận ra có nét gì đó giống như sự mặc cảm của ông khi đối diện với đám nhà văn nhà báo “lau nhau” chúng tôi. Rất khó diễn đạt ánh mắt của ông. Khi chúng tôi tặng ông mấy miếng thêu, nói là sản phẩm làm bằng tay của nông dân Việt Nam, thì ông bất ngờ lúng túng, cứ hỏi đi hỏi lại là nó được nông dân làm bằng tay, họ sống ở vùng nào, cứ như chúng tôi nói dối ông.

Thực ra, đấy là cách ông che giấu sự bối rối. Một người từng là ứng cử viên chức tổng thống Mỹ, sao lại có tâm trạng lạ như vậy, trước những kẻ vô danh tiểu tốt là chúng tôi?


https://sohanews2.vcmedia.vn/zoom/459_296/2016/co-ninh1-1464791413066-0-41-371-546-crop-1464791699323.jpg
Bà Tôn Nữ Thị Ninh
Mãi khi về nước, tìm hiểu kỹ lai lịch của ông, tôi mới phần nào hiểu tại sao ông có tâm trạng đó. Cũng như mãi sau tôi mới nhận ra, tại sao những cựu chiến binh đón chúng tôi cứ tốt với chúng tôi một cách không thể hiểu nổi, đôi khi khiến chúng tôi thấy ngại. Hóa ra họ tận dụng mọi cơ hội để sám hối với người Việt, về những gì đã làm trong quá khứ. Tất nhiên không phải ai trong số họ cũng làm như vậy, tôi biết rõ điều này.

Giờ thì Bob là ai, mọi người đều đã rõ. Vì sao có cuộc tranh cãi ầm ỹ về chức vụ hiện nay của ông tại Đại học Fulbright Việt Nam, cũng chẳng cần phải giải thích thêm. Trong bài viết này, thể hiện sự quan tâm đến “vụ việc” Bob Kerrey, tôi chỉ xin nói đôi điều suy nghĩ của mình về bức thư ngỏ của bà Tôn Nữ Thị Ninhbài trả lời phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Hai bài này hoàn toàn độc lập, không phải hai tác giả này tranh luận với nhau), cùng đăng trên VietNamNet, một cách ngắn gọn nhất có thể.

Tôi phải nói ngay là tôi thuộc số người ủng hộ ông Thiều, cũng tức là không cùng quan điểm với bà Ninh.

Nhưng ở đây tôi sẽ không bàn đến chuyện ai đúng ai sai. Tôi chỉ muốn nói về cách mà các nhà trí thức đưa ra quan điểm của mình.

Tôi rất không thích cách của bà Tôn Nữ Thị Ninh. Ngay từ tên của bức thư, dường như bà đã ngầm xác định (hoặc nó khiến độc giả sẽ nghĩ như vậy) bà đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Không ai đủ tư cách làm điều đó khi ở vào vị thế chỉ được phép trình bày quan điểm cá nhân của mình. Có thể đây là thói quen nghề nghiệp cũ của bà chăng?

Tôi cũng không thích cách bà vạch vòi về nguồn gốc số tiền 20 triệu USD dùng cho dự án Đại học Fulbright Việt Nam. Mục đích của việc này chỉ nhằm chứng minh Bob Kerrey không có công lao gì trong việc huy động số tiền ấy. Có thể sự thật là như vậy nhưng động cơ của bà là gì? Nếu định nói cho rõ một chuyện, thì những giải thích của bà lại quá rối rắm khiến bạn đọc chẳng hiểu điều gì ẩn khuất trong số tiền ấy. Tôi tin là nhiều người cũng không hiểu rõ giống như tôi. Nhưng cứ cho là tôi chậm hiểu, thì vẫn còn một câu hỏi: Vậy ai (nếu thực sự Bob không có vai trò) đã tác động để số tiền đó (chắc chắn là của Mỹ, dù dưới bất cứ hình thức nào) bò về Fulbright Việt Nam?

Tôi tôn trọng quan điểm cá nhân của tác giả trong bức thư ngỏ, nhưng dứt khoát nó không phải là quan điểm của đa số người Việt như cách thức được trình bày. Ngữ điệu của bức thư như là một lời lên án chính trị nhằm vào ai đó không nghĩ giống mình, hơn là “mỗi người hãy nói hết ra điều mình nghĩ” - như đề nghị của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Tôi phải nói thật tâm trạng của mình là tôi rất thất vọng về thái độ này.

Sự hằn học, đố kị, ngạo mạn, hiếu thắng không bao giờ là văn hóa trao đổi. Vì thế tôi đánh giá cao bài trả lời của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Ông nhà thơ này chỉ tha thiết đề nghị mọi người lắng nghe ông, rồi tự mỗi người sẽ đưa ra quyết định chứ ông không hề áp đặt bất cứ quan điểm nào.

Trong số hơn một trăm phản hồi về bức thư ngỏ, có người tỏ ý nghi ngờ bà Ninh từng thất bại trong một dự án giáo dục, giờ không muốn thấy người khác thành công. Tôi cố gắng để không tin vào điều này. Nhưng tôi cứ không cưỡng được ý nghĩ, hình như tác giả ác cảm với Bob Kerrey không phải vì lý do ông ấy từng tham chiến tại Việt Nam. Bà Ninh thừa hiểu rằng, trong chiến tranh, kẻ tội phạm đáng nguyền rủa nhất không phải là người lính trên chiến trường. Nhưng tôi không bình luận về thái độ ấy của bà.

Cuối cùng, liệu có cần phải trình diễn quan điểm chính trị một cách đao to búa lớn thì mới chứng tỏ được mình đang có trách nhiệm với đất nước? Tôi tuyệt đối nghi ngờ sự chân thành, vô tư của những người làm như vậy. Một người cả đời không nói lời nào về thái độ chính trị, không quảng bá tình yêu nước của mình, có thể lại là người yêu nước sâu sắc nhất.

Tiện thể tôi muốn nói thêm vài suy nghĩ cá nhân về vấn đề Bob Kerrey. Qua hai bài viết, của hai nhân vật nổi tiếng mà tôi đều ngưỡng mộ về sự hiểu biết cũng như uy tín xã hội, liên quan đến Bob, thấy rõ là chúng ta còn rất lâu nữa mới không bị chia rẽ bởi quá khứ. Đó cũng là chuyện có thể hiểu được và chẳng ai đáng bị phê phán khi theo hoặc không theo quan điểm của người này, người kia. Vì thế, tôi muốn đưa ra một đề xuất: Hãy để chính tương lai lựa chọn những gì nó thấy tốt nhất cho nó. Ý tôi là, trong câu chuyện chưa có hồi kết này, hãy hỏi những người đang hoặc sắp thành sinh viên, xem ý kiến của họ thế nào? Họ đủ trường thành để trả lời một cách đúng đắn và chịu trách nhiệm về hiểu biết lịch sử của họ. Tôi nảy ra suy nghĩ này sau khi đọc hơn một trăm phản hồi về bài của bà Tôn Nữ Thị Ninh trên VietNamNet. Căn cứ vào cách xưng hô, tôi nhận ra quá nửa trong số các phản hồi là của những người trẻ. Họ chín chắn, hiểu rõ vấn đề và thể hiện văn hóa trao đổi cao một cách đáng kinh ngạc. Chính từ sự nhận biết đó và căn cứ vào quá nửa số phản hồi, càng khiến tôi tin rằng, học vấn, kinh nghiệm sống và sự sáng suốt không phải lúc nào và với ai cũng đồng hành cùng nhau.

Về phần mình, tôi nghĩ thế này: Một đất nước mà để quá khứ quyết định mọi chuyện, là một đất nước đi giật lùi.

Tạ Duy Anh

Tác giả gửi BVN.
(Bauxite)

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

Chú em từ nhà quê gọi điện lên:" Mấy hôm nay bác đi đâu thế?"" Tôi ở nhà suốt"" Bác không biết gì à? Họ tuyên dương những con người bình dị bằng hình ảnh học tập trước tác Mao Trạch Đông. Bác cứ mở lại chương trình văn nghệ trên VTV tối 11-6 thì biết"

Hà chứ TQ có ghĩa là "Học tập và ứng dụng tư tưởng triết học rực rỡ của Mao Chủ tịch" (theo Hoàng Tuấn Công)
Mở lại chương trình. Đây là chương trình do báo Quân đội nhân dán và VTV phối hợp. Hai cơ quan truyền thông lớn, quan trọng thế mà để xảy ra lỗi nghiêm trọng này thì không tưởng tượng được. Lần trước, tôi không nhớ do đơn vị nào của Quân đội cũng chon nhạc tàu làm nhạc nền cho Chủ tịch nước lên phát biểu. Lần này hai cơ quan truyền thông còn làm việc tệ hại hơn. Một nỗi thất vọng lớn, một nỗi tủi hổ, một sự bất bình không nén được. Một sự bất an khiến day dứt. Không thể biện minh vì lý do gì được vì hình ảnh dân Trung Quốc với trang phục, mũ mãng, tay cầm sách đỏ, mặt mũi hớn hở và dòng chữ tàu to như thế thì nhầm làm sao được? Những chương trình loại này bao giờ cũng có duyệt maquett trang trí, nội dung và ca sĩ, còn sơ duyệt, tổng duyệt nữa. Họ đã làm gì để những chuyện kiểu này không chỉ một lần? VTV vài năm nay có quá nhiều sự lộn xộn. Tôi không nói đến những chuyện khác nhau trong quan niệm như vụ " đấu tố" anh này chị kia về động cơ viết FB hay làm từ thiện. Tôi chỉ muốn nói đến những vấn đề chính trị, quan hệ quốc tế, hành xử với dân...mà nhà đài đã thiếu trách nhiệm khi đưa tin, dựng chương trình để dẫn đến những phản ứng của xã hội, gây bất lợi cho việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Để xảy ra những việc này, tôi nghĩ các cơ quan có trách nhiệm nên ngồi lại xem xét trách nhiệm của từng người và các đơn vị liên quan. Đây chính là lúc nên hỏi thật kỹ " động cơ" họ làm những việc này để làm gì? Những chuyện 2 bộ thừa hơn 200 xe công, cán bộ mắc khuyết điểm lớn mà 3 năm luân chuyển ba lần, lên chức mới, thoát khuyết điểm cũ ở lĩnh vực khác, ngồi vào ghế lãnh đạo, lại được cơ quan quản lý đánh giá năng lực tốt, phẩm chất tốt, ở lĩnh vực tinh thần thì như thế này, tôi thấy ngột ngạt quá. Không chỉ là chuyện kỹ năng nghiệp vụ nữa mà là ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm công dân. Khi tất cả những thứ đó không còn hoặc kém quá thì cũng nên cho họ nghỉ, giao việc ấy cho người khác để họ đừng tiếp tục gây hại cho xã hội nữa.

Việc nóng lắm rồi, không nên để chìm đi và cũng không nên xử lý theo kiểu rút kinh nghiệm nữa. Làm thế, chỉ hỏng việc thêm thôi.

Phạm Quang Long

* GS. TS. nguyên GĐ Sở Văn hóa Hà Nội

(Blog Tễu)
23:30 Unknown
Chú em từ nhà quê gọi điện lên:" Mấy hôm nay bác đi đâu thế?"" Tôi ở nhà suốt"" Bác không biết gì à? Họ tuyên dương những con người bình dị bằng hình ảnh học tập trước tác Mao Trạch Đông. Bác cứ mở lại chương trình văn nghệ trên VTV tối 11-6 thì biết"

Hà chứ TQ có ghĩa là "Học tập và ứng dụng tư tưởng triết học rực rỡ của Mao Chủ tịch" (theo Hoàng Tuấn Công)
Mở lại chương trình. Đây là chương trình do báo Quân đội nhân dán và VTV phối hợp. Hai cơ quan truyền thông lớn, quan trọng thế mà để xảy ra lỗi nghiêm trọng này thì không tưởng tượng được. Lần trước, tôi không nhớ do đơn vị nào của Quân đội cũng chon nhạc tàu làm nhạc nền cho Chủ tịch nước lên phát biểu. Lần này hai cơ quan truyền thông còn làm việc tệ hại hơn. Một nỗi thất vọng lớn, một nỗi tủi hổ, một sự bất bình không nén được. Một sự bất an khiến day dứt. Không thể biện minh vì lý do gì được vì hình ảnh dân Trung Quốc với trang phục, mũ mãng, tay cầm sách đỏ, mặt mũi hớn hở và dòng chữ tàu to như thế thì nhầm làm sao được? Những chương trình loại này bao giờ cũng có duyệt maquett trang trí, nội dung và ca sĩ, còn sơ duyệt, tổng duyệt nữa. Họ đã làm gì để những chuyện kiểu này không chỉ một lần? VTV vài năm nay có quá nhiều sự lộn xộn. Tôi không nói đến những chuyện khác nhau trong quan niệm như vụ " đấu tố" anh này chị kia về động cơ viết FB hay làm từ thiện. Tôi chỉ muốn nói đến những vấn đề chính trị, quan hệ quốc tế, hành xử với dân...mà nhà đài đã thiếu trách nhiệm khi đưa tin, dựng chương trình để dẫn đến những phản ứng của xã hội, gây bất lợi cho việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Để xảy ra những việc này, tôi nghĩ các cơ quan có trách nhiệm nên ngồi lại xem xét trách nhiệm của từng người và các đơn vị liên quan. Đây chính là lúc nên hỏi thật kỹ " động cơ" họ làm những việc này để làm gì? Những chuyện 2 bộ thừa hơn 200 xe công, cán bộ mắc khuyết điểm lớn mà 3 năm luân chuyển ba lần, lên chức mới, thoát khuyết điểm cũ ở lĩnh vực khác, ngồi vào ghế lãnh đạo, lại được cơ quan quản lý đánh giá năng lực tốt, phẩm chất tốt, ở lĩnh vực tinh thần thì như thế này, tôi thấy ngột ngạt quá. Không chỉ là chuyện kỹ năng nghiệp vụ nữa mà là ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm công dân. Khi tất cả những thứ đó không còn hoặc kém quá thì cũng nên cho họ nghỉ, giao việc ấy cho người khác để họ đừng tiếp tục gây hại cho xã hội nữa.

Việc nóng lắm rồi, không nên để chìm đi và cũng không nên xử lý theo kiểu rút kinh nghiệm nữa. Làm thế, chỉ hỏng việc thêm thôi.

Phạm Quang Long

* GS. TS. nguyên GĐ Sở Văn hóa Hà Nội

(Blog Tễu)
Tên đầy đủ của bài này là: Thân Mỹ, chống bành trướng, chống độc tài, cứu nước, cứu nhà, cứu mình!


Tinh thần ấy, ý chí ấy đã hiển thị hùng hồn chưa từng có từ gương mặt ánh mắt nụ cười và phong thái của hàng ngàn hàng ngàn người dân Việt tự nguyện, tự động, chủ động đầy hào hứng nhiệt thành cùng nhau đi đón chào Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đến thăm Việt Nam (22 tháng 5.2016 – 25 tháng 5.2016).

Tôi tin rằng người dân ý thức rất rõ, khi giơ tay vẫy chào Obama là chào mừng sự kết hợp các giá trị truyền thống Việt với các giá trị Mỹ (và phương Tây).

Giá trị truyền thống Việt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”…, “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.

Giá trị Mỹ và phương Tây: Tự do, dân chủ, nhân quyền. Đây cũng đồng thời là giá trị phổ quát của toàn nhân loại mà nhân dân tại tất cả các quốc gia chưa có dân chủ đang hàng ngày hàng giờ hướng tới.

Tôi tin rằng người dân ý thức rất rõ: một chàng trai gốc Phi có tên Barack Obama xuất thân bình dân trở thành Tiến sĩ luật rồi Thượng nghị sĩ và Tổng thống Mỹ chính là biểu hiện tính ưu việt của nền dân chủ Mỹ mà bất cứ ai, bất cứ thế lực nào dù ác ý đến đâu cũng không thể tìm cách gì hạ thấp.

Sự kết hợp các giá trị truyền thống Việt với các giá trị Mỹ và phương Tây đã được nhân dân Việt Nam viết lên ngực mình bằng tám chữ máu:

TỔ QUỐC TRÊN HẾT, QUYỀN DÂN TRÊN HẾT!

Với cuộc viếng thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, sự nghiệp thân Mỹ, chống bành trướng, chống độc tài, cứu nước, cứu nhà, cứu mình của nhân dân Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn thuận lợi vượt bực. Tôi thấy nhân dân đã cùng nhau tận dụng điều kiện thuận lợi mới này để bắt tay vào những công việc cụ thể, thiết thực.

Công việc bao trùm là đẩy mạnh dân vận, đảng vận, nghị vận, binh vận để xây dựng LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI (từ MỚI ở đây là để phân biệt người dân trong chế độ độc tài toàn trị tuy có danh nghĩa công dân nhưng thực chất vẫn chỉ là một thứ thần dân dưới ách “Vua tập thể” = Bộ Chính trị & Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).

Vận động trên bề nổi công luận và vận động thầm lặng từ cơ sở lên mọi cấp thông qua mối quan hệ của từng công dân, từng gia đình, từng tổ chức cả Lề Đảng lẫn Lề Dân.

Vận động để thống nhất nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng có tính quyết định của tiến trình dân chủ hoá là phải XÂY DỰNG CHO BẰNG ĐƯỢC LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI.

Nhân dân đã tự xác định NGƯỜI CÔNG DÂN MỚI:

- Là người có ý thức rõ rệt về các quyền và trách nhiệm của mình;

- Là người có ý thức làm chủ, ý chí làm chủ, kỹ năng làm chủ; làm chủ trong mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói và việc làm, trước hết là làm chủ tiếng nói chính trị, kinh tế và văn hoá, làm chủ lá phiếu;

- Là người thấy rõ các quyền công dân cơ bản của mình như “quyền tự do ngôn luận”, “quyền tự do báo chí, xuất bản”, “quyền tự do biểu tình”, “quyền tự do hội họp, lập hội, lập nghiệp đoàn”, “quyền tự do ứng cử bầu cử” về hình thức cũng được long trọng ghi trong Hiến pháp nhưng dưới chế độ toàn trị này đã bị thủ tiêu trên thực tế; công dân phải có trách nhiệm tự đứng lên tích cực chủ động thực hiện các quyền ấy; công dân phải đòi Nhà nước thực hiện trách nhiệm của Nhà nước là tạo môi trường thuận lợi để người dân thực thi các quyền con người của mình, đòi Nhà nước chấm dứt việc hạn chế trên thực tế các quyền đó dưới mọi hình thức.

Các bài học lịch sử đã chỉ rõ: muốn đẩy nhanh tốc độ xây dựng LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI đạt hiệu quả cao, phải tiến hành có tổ chức.

Đúng vậy, tổ chức, tổ chức và tổ chức.

Nhân dân đã từng có bề dày trải nghiệm và vô vàn sáng kiến về tổ chức. Mỗi tổ chức bao giờ cũng bắt đầu từ một số rất ít những con người thức tỉnh sớm, dám dấn thân với động cơ trong sáng, tìm đến nhau như tìm tri âm tri kỷ, và tự nguyện kết chặt với nhau thành một nhóm trung kiên chí cốt, nguyện thành tâm hiến trọn đời mình cho sự nghiệp chiến đấu vì Tổ Quốc và Quyền Dân.

Có vô vàn hình thức tổ chức.

Người dân đang khôn khéo tiến hành lập tổ chức từ những cách làm dễ nhất đến ít dễ hơn, đến khó hơn. Từ Câu lạc bộ (viết tắt: CLB, loại tổ chức không cần xin phép), đến các hội đoàn ra đời bằng cách tự hiện thực hoá quyền tự do lập hội đã ghi trong Hiến pháp.

Đã ra đời CLB VÌ MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHOẺ NGƯỜI DÂN. Rồi sẽ tiếp tục ra đời các CLB và hội đoàn hết sức phong phú với mọi kiểu dạng và nội dung hoạt động. Đó có thể là:

CLB cựu đảng viên yêu nước vì dân

CLB XÂY DỰNG NGƯỜI CÔNG DÂN MỚI

CLB Công dân tự ứng cử vào Quốc hội

CLB xây dựng các địa bàn dân cư với lượng Công dân – cử tri mới từ thiểu số trở thành đa số

v.v.

Có thể xây dựng những CLB, hội đoàn toàn quốc.

Cũng có thể từng địa phương tích cực chủ động xây dựng các CLB, hội đoàn của địa phương mình.

Rồi tiến tới liên kết thành một MẶT TRẬN CÔNG DÂN VIỆT NAM MỚI.

Tôi tin rằng nếu từng người từng ngày tích cực chủ động vào cuộc thì trong một thời gian không quá lâu, Mặt trận này sẽ có khoảng 30-40 triệu thành viên.

Đây sẽ là lực lượng quyết định cho sự nghiệp THIẾT LẬP QUYỀN LÀM CHỦ THỰC SỰ của nhân dân Việt Nam trên đất nước Việt Nam

Đà Lạt tháng 6/2016

Bùi Minh Quốc

Tác giả gửi BVN.

(Bauxitevn)
18:34 Unknown
Tên đầy đủ của bài này là: Thân Mỹ, chống bành trướng, chống độc tài, cứu nước, cứu nhà, cứu mình!


Tinh thần ấy, ý chí ấy đã hiển thị hùng hồn chưa từng có từ gương mặt ánh mắt nụ cười và phong thái của hàng ngàn hàng ngàn người dân Việt tự nguyện, tự động, chủ động đầy hào hứng nhiệt thành cùng nhau đi đón chào Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đến thăm Việt Nam (22 tháng 5.2016 – 25 tháng 5.2016).

Tôi tin rằng người dân ý thức rất rõ, khi giơ tay vẫy chào Obama là chào mừng sự kết hợp các giá trị truyền thống Việt với các giá trị Mỹ (và phương Tây).

Giá trị truyền thống Việt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”…, “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.

Giá trị Mỹ và phương Tây: Tự do, dân chủ, nhân quyền. Đây cũng đồng thời là giá trị phổ quát của toàn nhân loại mà nhân dân tại tất cả các quốc gia chưa có dân chủ đang hàng ngày hàng giờ hướng tới.

Tôi tin rằng người dân ý thức rất rõ: một chàng trai gốc Phi có tên Barack Obama xuất thân bình dân trở thành Tiến sĩ luật rồi Thượng nghị sĩ và Tổng thống Mỹ chính là biểu hiện tính ưu việt của nền dân chủ Mỹ mà bất cứ ai, bất cứ thế lực nào dù ác ý đến đâu cũng không thể tìm cách gì hạ thấp.

Sự kết hợp các giá trị truyền thống Việt với các giá trị Mỹ và phương Tây đã được nhân dân Việt Nam viết lên ngực mình bằng tám chữ máu:

TỔ QUỐC TRÊN HẾT, QUYỀN DÂN TRÊN HẾT!

Với cuộc viếng thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, sự nghiệp thân Mỹ, chống bành trướng, chống độc tài, cứu nước, cứu nhà, cứu mình của nhân dân Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn thuận lợi vượt bực. Tôi thấy nhân dân đã cùng nhau tận dụng điều kiện thuận lợi mới này để bắt tay vào những công việc cụ thể, thiết thực.

Công việc bao trùm là đẩy mạnh dân vận, đảng vận, nghị vận, binh vận để xây dựng LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI (từ MỚI ở đây là để phân biệt người dân trong chế độ độc tài toàn trị tuy có danh nghĩa công dân nhưng thực chất vẫn chỉ là một thứ thần dân dưới ách “Vua tập thể” = Bộ Chính trị & Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).

Vận động trên bề nổi công luận và vận động thầm lặng từ cơ sở lên mọi cấp thông qua mối quan hệ của từng công dân, từng gia đình, từng tổ chức cả Lề Đảng lẫn Lề Dân.

Vận động để thống nhất nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng có tính quyết định của tiến trình dân chủ hoá là phải XÂY DỰNG CHO BẰNG ĐƯỢC LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI.

Nhân dân đã tự xác định NGƯỜI CÔNG DÂN MỚI:

- Là người có ý thức rõ rệt về các quyền và trách nhiệm của mình;

- Là người có ý thức làm chủ, ý chí làm chủ, kỹ năng làm chủ; làm chủ trong mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói và việc làm, trước hết là làm chủ tiếng nói chính trị, kinh tế và văn hoá, làm chủ lá phiếu;

- Là người thấy rõ các quyền công dân cơ bản của mình như “quyền tự do ngôn luận”, “quyền tự do báo chí, xuất bản”, “quyền tự do biểu tình”, “quyền tự do hội họp, lập hội, lập nghiệp đoàn”, “quyền tự do ứng cử bầu cử” về hình thức cũng được long trọng ghi trong Hiến pháp nhưng dưới chế độ toàn trị này đã bị thủ tiêu trên thực tế; công dân phải có trách nhiệm tự đứng lên tích cực chủ động thực hiện các quyền ấy; công dân phải đòi Nhà nước thực hiện trách nhiệm của Nhà nước là tạo môi trường thuận lợi để người dân thực thi các quyền con người của mình, đòi Nhà nước chấm dứt việc hạn chế trên thực tế các quyền đó dưới mọi hình thức.

Các bài học lịch sử đã chỉ rõ: muốn đẩy nhanh tốc độ xây dựng LỰC LƯỢNG CÔNG DÂN MỚI đạt hiệu quả cao, phải tiến hành có tổ chức.

Đúng vậy, tổ chức, tổ chức và tổ chức.

Nhân dân đã từng có bề dày trải nghiệm và vô vàn sáng kiến về tổ chức. Mỗi tổ chức bao giờ cũng bắt đầu từ một số rất ít những con người thức tỉnh sớm, dám dấn thân với động cơ trong sáng, tìm đến nhau như tìm tri âm tri kỷ, và tự nguyện kết chặt với nhau thành một nhóm trung kiên chí cốt, nguyện thành tâm hiến trọn đời mình cho sự nghiệp chiến đấu vì Tổ Quốc và Quyền Dân.

Có vô vàn hình thức tổ chức.

Người dân đang khôn khéo tiến hành lập tổ chức từ những cách làm dễ nhất đến ít dễ hơn, đến khó hơn. Từ Câu lạc bộ (viết tắt: CLB, loại tổ chức không cần xin phép), đến các hội đoàn ra đời bằng cách tự hiện thực hoá quyền tự do lập hội đã ghi trong Hiến pháp.

Đã ra đời CLB VÌ MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHOẺ NGƯỜI DÂN. Rồi sẽ tiếp tục ra đời các CLB và hội đoàn hết sức phong phú với mọi kiểu dạng và nội dung hoạt động. Đó có thể là:

CLB cựu đảng viên yêu nước vì dân

CLB XÂY DỰNG NGƯỜI CÔNG DÂN MỚI

CLB Công dân tự ứng cử vào Quốc hội

CLB xây dựng các địa bàn dân cư với lượng Công dân – cử tri mới từ thiểu số trở thành đa số

v.v.

Có thể xây dựng những CLB, hội đoàn toàn quốc.

Cũng có thể từng địa phương tích cực chủ động xây dựng các CLB, hội đoàn của địa phương mình.

Rồi tiến tới liên kết thành một MẶT TRẬN CÔNG DÂN VIỆT NAM MỚI.

Tôi tin rằng nếu từng người từng ngày tích cực chủ động vào cuộc thì trong một thời gian không quá lâu, Mặt trận này sẽ có khoảng 30-40 triệu thành viên.

Đây sẽ là lực lượng quyết định cho sự nghiệp THIẾT LẬP QUYỀN LÀM CHỦ THỰC SỰ của nhân dân Việt Nam trên đất nước Việt Nam

Đà Lạt tháng 6/2016

Bùi Minh Quốc

Tác giả gửi BVN.

(Bauxitevn)
Ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.
Ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.
Câu chuyện về việc bổ nhiệm người đứng đầu Đại học Fulbright (FUV) – trường đại học phi lợi nhuận của Mỹ đầu tiên tại Việt Nam – đang làm nóng diễn đàn tranh luận, không chỉ trên các trang mạng của Việt Nam, mà còn tại một số diễn đàn báo chí của Mỹ. Một bên lên tiếng phản đối ông Bob Kerrey, người được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Tín thác của FUV, bởi một quá khứ “đen tối” của ông gắn liền với vụ thảm sát kinh hoàng, dối trá tại Thạnh Phong mà nạn nhân là phụ nữ, trẻ em thời chiến tranh Việt Nam. Bên kia cho rằng chiến tranh đã qua, quá khứ cần khép lại, hướng đến một FUV thật sự hiệu quả, có ích cho người Việt. Cá nhân tôi sau khi tìm hiểu về mô hình FUV, vai trò của Bob Kerrey với FUV, xem qua những bài báo xã luận của không ít người Việt lẫn người Mỹ, cũng xin gửi suy nghĩ vài dòng.

Một trong những người đại diện cho làn sóng phản đối ông Kerrey tại Việt Nam chính là bà Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, nay là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Ninh là một nhà ngoại giao kỳ cựu, rất có uy tín tại Việt Nam và quốc tế. Bà đưa ra quan điểm không sai về vai trò của ông Kerrey – không những mang tính biểu tượng như nhiều người ủng hộ ông lên tiếng, ông Kerrey còn đóng vai trò quan trọng, phức tạp hơn rất nhiều tại FUV. Xuất phát từ quá khứ của Kerrey, bà Ninh và nhiều người khác cùng quan điểm cho rằng để ông Kerrey làm Chủ tịch Hội đồng sẽ khiến trường đại học này gắn liền với “một quá khứ đen tối”. Bà Ninh xưng “chúng tôi”, dù không nói đại diện cho ai, khẳng định những người phản đối mong muốn “đại học Fulbright có một khởi điểm lành mạnh, đồng thuận, suôn sẻ và một con đường phát triển bền vững”.

Xem bức thư của Bà Ninh, quan điểm của nhiều người cùng ủng hộ, “like” và “share” những quan điểm của Bà Ninh, mới thấy rằng nhiều người ở thế hệ trước 1975 vẫn đang nặng mang trong mình nỗi ám ảnh chiến tranh, cuộc chiến không ai mong muốn tại Việt Nam. Nhiều dòng bình luận cho thấy trạng thái vẫn hoài nghi, chứ không phải hoàn toàn “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước Việt-Mỹ sau chuyến thăm đầy ý nghĩa vừa rồi của tổng thống Mỹ Obama đến Việt Nam. Và có một vài vấn đề tôi xin nhắn gửi.

Thứ nhất, chiến tranh không phải sản phẩm của những người như Bob Kerrey. Nếu như ông Kerrey gây ra vụ thảm sát mà bản thân tôi cũng rất không đồng tình, thậm chí có khi còn khó có thể lãng quên, thì bà Ninh và nhiều người ủng hộ bà cũng nên nhớ rằng viên phi công người Mỹ đã từng thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, biến nơi này thành thời đồ đá, có lẽ không thể và không bao giờ được lãng quên. Nhưng dù hình ảnh kinh hoàng đó vẫn còn lưu đầy trong tâm trí của người Nhật, thì họ cũng sẵn sàng chào đón người Mỹ quay lại và sửa chữa lỗi lầm. Người Việt Nam có một câu rất nổi tiếng “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại.” Bà Ninh, nếu không căm phẫn chính quyền Mỹ, thì tại sao lại cứ nhắc lại cái quá khứ không mấy yên ả, gợi nỗi đau cũ để phủ nhận một con người đang “chạy lại”, không phải ghi công, mà là chuộc lại những lỗi lầm mà ông ấy đã gây ra? Tại sao người Việt kéo xuống đường kín mít để đón tổng thống Mỹ - người giữ chức vụ tương đương với người cách đây mấy chục năm đã ra lệnh ném bom xuống Hà Nội, Sài Gòn khiến không biết bao nhiêu người thiệt mạng? Tôi đồng ý rằng nếu chỉ nói tha thứ, mà không quên đi để hướng tới tương lai, thì đó chỉ là “tha thứ một nửa.” Tất nhiên cũng như sự thật, đó không phải là tha thứ. Tôi nhấn mạnh đến vai trò của bà Ninh vì bà đang là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển, là một cựu viên chức ngoại giao, vốn phải rất hiểu khái niệm “bạn – thù” trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, tôi phải thừa nhận mình rất thích quan điểm của tác giả Nguyên Ngọc trong một bài viết về Kerrey. Nguyên Ngọc dẫn lại lời của Kerrey trên báo chí Việt Nam, rằng “Hành động của tôi (ông Kerrey) ở Việt Nam là kinh khủng và tôi tin đã được điều tra kỹ càng. Đó không phải là Mỹ Lai. Tuy nhiên, như bộ phim tài liệu sẽ sớm được phát của Ken Burns cho thấy: Chiến thuật của chúng tôi đã khiến ít nhất một triệu người vô tội thiệt mạng.” Bob Kerrey không để cho ai bào chữa cũng quyết không tự bào chữa cho mình, ông biết ông là một tội phạm không cầu mong được tha thứ, nhưng đồng thời bằng trải nghiệm đau đớn nhất của mình, ông cũng chỉ ra mâu thuẫn chết người trong cái mà ông gọi là “chiến thuật của chúng tôi”, tức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam: để tiêu diệt Việt Cộng phải đánh bật họ ra khỏi dân thường, ra khỏi “phụ nữ và trẻ con” (còn được gọi là chiến thuật “tát nước để bắt cá”). Mà điều ấy là vô phương, bởi vì, đặc biệt ở nông thôn, thời ấy, hai thực thể đó về căn bản là một. Không thể đánh trúng cái này mà không đánh trúng cái kia! Không thể diệt Việt Cộng mà không giết dân, đàn bà và trẻ con! Cho nên, cho phép tôi nói điều này: Bob Kerrey là tội phạm, điều ấy ông đã đau đớn nhận, nhưng ông cũng là nạn nhân. Nạn nhân bi thảm của cái “chiến thuật” nghe rất hay ho kia. Bob Kerrey nhận ra mâu thuẫn chết người ở chiến thuật ấy, nhưng không dùng nó để bào chữa cho mình. Điều đó là vĩ đại. FUV có được một người đứng đầu như vậy là tuyệt đẹp. Và tôi cho lựa chọn của FUV là thật nhân văn. Còn riêng đối với chúng tôi (Nguyên Ngọc) thì sao, chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng “nấp” trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che cho chúng tôi? Hóa ra tự chúng tôi cũng còn một câu hỏi…" Tôi đồng tình, Kerrey là tội phạm, cũng là nạn nhân. Một con người, mà theo quan điểm của tôi, dù không tha thứ được thì cũng đáng để có một cơ hội sửa mình. Ông đã miệt mài sửa sai suốt mấy chục năm qua, và giờ là lúc ông đứng lên, rõ ràng hơn, để tiếp tục sửa sai lầm bằng một vai trò khác, một vị trí khác, một bối cảnh hoàn toàn khác.

Thứ ba, nếu bà Ninh và những ai cảm thấy bức xúc vì một người có quá đen tối như Kerrey làm người đứng đầu FUV, thì xin hãy nhớ cho trọn vẹn vai trò của ông khi đưa VEF (Quỹ giáo dục Việt Nam) vào Việt Nam, và nay là FUV. Với những gì Mỹ thời Obama làm với Việt Nam, với những gì ông Obama thể hiện ở Việt Nam, và sự khéo léo của ông khi nói đến các vấn đề nhạy cảm trong chuyến thăm vừa rồi, cá nhân tôi tin người ta (Mỹ) chọn ông Kerrey vốn không phải là một sự tình cờ. Người vào vị trí này, ngoài năng lực, còn có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sáng lập và xây dựng. Tôi tự hỏi tại sao bà Ninh và rất nhiều người khác không phản đối ông Kerrey khi ông đưa VEF hay ông vận động hành lang thành lập FUV? Tại sao không phản đối ông cùng cộng sự tạo dựng nên chương trình đào tạo, mục tiêu và khung sườn cho FUV? Hay ít nhất phải phản đối FUV khi thấy có ông Kerrey nằm trong danh sách những người quan trọng bậc nhất, thậm chí xứng đáng lãnh đạo FUV? Lên lãnh đạo FUV – chức vụ FUV là một điểm nhấn khiến bà Ninh và nhiều người phản đối quyết liệt, trong khi quá trình ông ấy làm để có VEF, để có được FUV thì không thấy ai lên tiếng. Như vậy thưa bà Ninh, bà có hoàn toàn công bằng với Kerrey?

Cá nhân tôi tin rằng, bản thân ông Kerrey, như những cựu chiến binh khác từng chiến đấu ở Việt Nam, đều mang rất nhiều cảm xúc về vùng đất mà họ từng nhuốm đầy máu và cả nước mắt. Khác với nhiều người cho rằng Kerrey không biết tự trọng khi ngồi vào ghế lãnh đạo FUV, hay như bà Ninh cho rằng Mỹ thiếu nhạy cảm về lịch sử. Cá nhân tôi, một người trẻ, dù không đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam, vẫn cảm thấy ông Kerrey và chính quyền Mỹ là dũng cảm. Tôi tin ông Kerrey đã lường trước được sóng gió khi ông về Việt Nam lãnh đạo FUV, đó là lý do đến nay ông vẫn không giải thích, không biện hộ nhưng vẫn quyết liệt làm. Tôi tin với sự chuyên nghiệp của người làm ngoại giao Mỹ, sẽ không thể bỏ qua quá khứ Kerrey khi đề cử ông trở lại Việt Nam làm việc, nhưng họ có cái lý của họ. Người Mỹ đã sửa sai rất tốt ở Nhật Bản, và cả Việt Nam, nhưng phải cần những người như Kerrey trở lại thì cảm giác “sợ chiến tranh, sợ quá khứ” mới có thể phai nhạt. Tôi biết việc đó không hề dễ dàng, đối với cả nhiều người Việt Nam (như bà Ninh và những người lên tiếng phản đối), và cả ông Kerrey lẫn chính quyền Mỹ. Bức xúc như bà Ninh thì quá dễ dàng, nhưng cứ làm những điều dễ thì biết bao giờ mới tạo nên đột phá và hiệu quả.

Tôi chờ 5 năm, 10 năm sau, thậm chí 30 năm sau để thấy một Việt Nam hết mực tín nhiệm FUV. Tôi không biết ông Kerrey rồi sẽ làm được bao nhiêu ngày tháng với FUV, nhưng người dân Việt Nam rồi sẽ nhắc đến ông bằng sự hài lòng, bằng sự bao dung đã được trải nghiệm, và bằng cả sự tha thứ trọn vẹn chứ không phải tha thứ nhưng sẽ không quên như bà Ninh hay nhiều người khác. Thưa bà Ninh, tôi tôn trọng quan điểm của bà, nhưng mong bà hãy suy xét một cách công bằng và trọn vẹn.

Cao Huy Huân

* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

(VOA)
17:49 Unknown
Ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.
Ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.
Câu chuyện về việc bổ nhiệm người đứng đầu Đại học Fulbright (FUV) – trường đại học phi lợi nhuận của Mỹ đầu tiên tại Việt Nam – đang làm nóng diễn đàn tranh luận, không chỉ trên các trang mạng của Việt Nam, mà còn tại một số diễn đàn báo chí của Mỹ. Một bên lên tiếng phản đối ông Bob Kerrey, người được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Tín thác của FUV, bởi một quá khứ “đen tối” của ông gắn liền với vụ thảm sát kinh hoàng, dối trá tại Thạnh Phong mà nạn nhân là phụ nữ, trẻ em thời chiến tranh Việt Nam. Bên kia cho rằng chiến tranh đã qua, quá khứ cần khép lại, hướng đến một FUV thật sự hiệu quả, có ích cho người Việt. Cá nhân tôi sau khi tìm hiểu về mô hình FUV, vai trò của Bob Kerrey với FUV, xem qua những bài báo xã luận của không ít người Việt lẫn người Mỹ, cũng xin gửi suy nghĩ vài dòng.

Một trong những người đại diện cho làn sóng phản đối ông Kerrey tại Việt Nam chính là bà Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, nay là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Ninh là một nhà ngoại giao kỳ cựu, rất có uy tín tại Việt Nam và quốc tế. Bà đưa ra quan điểm không sai về vai trò của ông Kerrey – không những mang tính biểu tượng như nhiều người ủng hộ ông lên tiếng, ông Kerrey còn đóng vai trò quan trọng, phức tạp hơn rất nhiều tại FUV. Xuất phát từ quá khứ của Kerrey, bà Ninh và nhiều người khác cùng quan điểm cho rằng để ông Kerrey làm Chủ tịch Hội đồng sẽ khiến trường đại học này gắn liền với “một quá khứ đen tối”. Bà Ninh xưng “chúng tôi”, dù không nói đại diện cho ai, khẳng định những người phản đối mong muốn “đại học Fulbright có một khởi điểm lành mạnh, đồng thuận, suôn sẻ và một con đường phát triển bền vững”.

Xem bức thư của Bà Ninh, quan điểm của nhiều người cùng ủng hộ, “like” và “share” những quan điểm của Bà Ninh, mới thấy rằng nhiều người ở thế hệ trước 1975 vẫn đang nặng mang trong mình nỗi ám ảnh chiến tranh, cuộc chiến không ai mong muốn tại Việt Nam. Nhiều dòng bình luận cho thấy trạng thái vẫn hoài nghi, chứ không phải hoàn toàn “bình thường hóa quan hệ” giữa hai nước Việt-Mỹ sau chuyến thăm đầy ý nghĩa vừa rồi của tổng thống Mỹ Obama đến Việt Nam. Và có một vài vấn đề tôi xin nhắn gửi.

Thứ nhất, chiến tranh không phải sản phẩm của những người như Bob Kerrey. Nếu như ông Kerrey gây ra vụ thảm sát mà bản thân tôi cũng rất không đồng tình, thậm chí có khi còn khó có thể lãng quên, thì bà Ninh và nhiều người ủng hộ bà cũng nên nhớ rằng viên phi công người Mỹ đã từng thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, biến nơi này thành thời đồ đá, có lẽ không thể và không bao giờ được lãng quên. Nhưng dù hình ảnh kinh hoàng đó vẫn còn lưu đầy trong tâm trí của người Nhật, thì họ cũng sẵn sàng chào đón người Mỹ quay lại và sửa chữa lỗi lầm. Người Việt Nam có một câu rất nổi tiếng “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại.” Bà Ninh, nếu không căm phẫn chính quyền Mỹ, thì tại sao lại cứ nhắc lại cái quá khứ không mấy yên ả, gợi nỗi đau cũ để phủ nhận một con người đang “chạy lại”, không phải ghi công, mà là chuộc lại những lỗi lầm mà ông ấy đã gây ra? Tại sao người Việt kéo xuống đường kín mít để đón tổng thống Mỹ - người giữ chức vụ tương đương với người cách đây mấy chục năm đã ra lệnh ném bom xuống Hà Nội, Sài Gòn khiến không biết bao nhiêu người thiệt mạng? Tôi đồng ý rằng nếu chỉ nói tha thứ, mà không quên đi để hướng tới tương lai, thì đó chỉ là “tha thứ một nửa.” Tất nhiên cũng như sự thật, đó không phải là tha thứ. Tôi nhấn mạnh đến vai trò của bà Ninh vì bà đang là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển, là một cựu viên chức ngoại giao, vốn phải rất hiểu khái niệm “bạn – thù” trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, tôi phải thừa nhận mình rất thích quan điểm của tác giả Nguyên Ngọc trong một bài viết về Kerrey. Nguyên Ngọc dẫn lại lời của Kerrey trên báo chí Việt Nam, rằng “Hành động của tôi (ông Kerrey) ở Việt Nam là kinh khủng và tôi tin đã được điều tra kỹ càng. Đó không phải là Mỹ Lai. Tuy nhiên, như bộ phim tài liệu sẽ sớm được phát của Ken Burns cho thấy: Chiến thuật của chúng tôi đã khiến ít nhất một triệu người vô tội thiệt mạng.” Bob Kerrey không để cho ai bào chữa cũng quyết không tự bào chữa cho mình, ông biết ông là một tội phạm không cầu mong được tha thứ, nhưng đồng thời bằng trải nghiệm đau đớn nhất của mình, ông cũng chỉ ra mâu thuẫn chết người trong cái mà ông gọi là “chiến thuật của chúng tôi”, tức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam: để tiêu diệt Việt Cộng phải đánh bật họ ra khỏi dân thường, ra khỏi “phụ nữ và trẻ con” (còn được gọi là chiến thuật “tát nước để bắt cá”). Mà điều ấy là vô phương, bởi vì, đặc biệt ở nông thôn, thời ấy, hai thực thể đó về căn bản là một. Không thể đánh trúng cái này mà không đánh trúng cái kia! Không thể diệt Việt Cộng mà không giết dân, đàn bà và trẻ con! Cho nên, cho phép tôi nói điều này: Bob Kerrey là tội phạm, điều ấy ông đã đau đớn nhận, nhưng ông cũng là nạn nhân. Nạn nhân bi thảm của cái “chiến thuật” nghe rất hay ho kia. Bob Kerrey nhận ra mâu thuẫn chết người ở chiến thuật ấy, nhưng không dùng nó để bào chữa cho mình. Điều đó là vĩ đại. FUV có được một người đứng đầu như vậy là tuyệt đẹp. Và tôi cho lựa chọn của FUV là thật nhân văn. Còn riêng đối với chúng tôi (Nguyên Ngọc) thì sao, chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng “nấp” trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che cho chúng tôi? Hóa ra tự chúng tôi cũng còn một câu hỏi…" Tôi đồng tình, Kerrey là tội phạm, cũng là nạn nhân. Một con người, mà theo quan điểm của tôi, dù không tha thứ được thì cũng đáng để có một cơ hội sửa mình. Ông đã miệt mài sửa sai suốt mấy chục năm qua, và giờ là lúc ông đứng lên, rõ ràng hơn, để tiếp tục sửa sai lầm bằng một vai trò khác, một vị trí khác, một bối cảnh hoàn toàn khác.

Thứ ba, nếu bà Ninh và những ai cảm thấy bức xúc vì một người có quá đen tối như Kerrey làm người đứng đầu FUV, thì xin hãy nhớ cho trọn vẹn vai trò của ông khi đưa VEF (Quỹ giáo dục Việt Nam) vào Việt Nam, và nay là FUV. Với những gì Mỹ thời Obama làm với Việt Nam, với những gì ông Obama thể hiện ở Việt Nam, và sự khéo léo của ông khi nói đến các vấn đề nhạy cảm trong chuyến thăm vừa rồi, cá nhân tôi tin người ta (Mỹ) chọn ông Kerrey vốn không phải là một sự tình cờ. Người vào vị trí này, ngoài năng lực, còn có khả năng ảnh hưởng đến quá trình sáng lập và xây dựng. Tôi tự hỏi tại sao bà Ninh và rất nhiều người khác không phản đối ông Kerrey khi ông đưa VEF hay ông vận động hành lang thành lập FUV? Tại sao không phản đối ông cùng cộng sự tạo dựng nên chương trình đào tạo, mục tiêu và khung sườn cho FUV? Hay ít nhất phải phản đối FUV khi thấy có ông Kerrey nằm trong danh sách những người quan trọng bậc nhất, thậm chí xứng đáng lãnh đạo FUV? Lên lãnh đạo FUV – chức vụ FUV là một điểm nhấn khiến bà Ninh và nhiều người phản đối quyết liệt, trong khi quá trình ông ấy làm để có VEF, để có được FUV thì không thấy ai lên tiếng. Như vậy thưa bà Ninh, bà có hoàn toàn công bằng với Kerrey?

Cá nhân tôi tin rằng, bản thân ông Kerrey, như những cựu chiến binh khác từng chiến đấu ở Việt Nam, đều mang rất nhiều cảm xúc về vùng đất mà họ từng nhuốm đầy máu và cả nước mắt. Khác với nhiều người cho rằng Kerrey không biết tự trọng khi ngồi vào ghế lãnh đạo FUV, hay như bà Ninh cho rằng Mỹ thiếu nhạy cảm về lịch sử. Cá nhân tôi, một người trẻ, dù không đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam, vẫn cảm thấy ông Kerrey và chính quyền Mỹ là dũng cảm. Tôi tin ông Kerrey đã lường trước được sóng gió khi ông về Việt Nam lãnh đạo FUV, đó là lý do đến nay ông vẫn không giải thích, không biện hộ nhưng vẫn quyết liệt làm. Tôi tin với sự chuyên nghiệp của người làm ngoại giao Mỹ, sẽ không thể bỏ qua quá khứ Kerrey khi đề cử ông trở lại Việt Nam làm việc, nhưng họ có cái lý của họ. Người Mỹ đã sửa sai rất tốt ở Nhật Bản, và cả Việt Nam, nhưng phải cần những người như Kerrey trở lại thì cảm giác “sợ chiến tranh, sợ quá khứ” mới có thể phai nhạt. Tôi biết việc đó không hề dễ dàng, đối với cả nhiều người Việt Nam (như bà Ninh và những người lên tiếng phản đối), và cả ông Kerrey lẫn chính quyền Mỹ. Bức xúc như bà Ninh thì quá dễ dàng, nhưng cứ làm những điều dễ thì biết bao giờ mới tạo nên đột phá và hiệu quả.

Tôi chờ 5 năm, 10 năm sau, thậm chí 30 năm sau để thấy một Việt Nam hết mực tín nhiệm FUV. Tôi không biết ông Kerrey rồi sẽ làm được bao nhiêu ngày tháng với FUV, nhưng người dân Việt Nam rồi sẽ nhắc đến ông bằng sự hài lòng, bằng sự bao dung đã được trải nghiệm, và bằng cả sự tha thứ trọn vẹn chứ không phải tha thứ nhưng sẽ không quên như bà Ninh hay nhiều người khác. Thưa bà Ninh, tôi tôn trọng quan điểm của bà, nhưng mong bà hãy suy xét một cách công bằng và trọn vẹn.

Cao Huy Huân

* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

(VOA)

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

Đọc hai bài báo “Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: 40 người dân phải nuôi một công chức” (Pháp Luật TP.HCM), và “11 triệu người ăn lương: Ngân sách nào kham nổi?” (VietnamNet).

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói: “Bộ máy nhà nước của chúng ta hiện nay có khoảng 2,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức.

Chuyen gia kinh te Pham Chi Lan: 40 nguoi dan phai nuoi mot cong chuc - Anh 1
                                                 Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Nếu cộng cả đối tượng nghỉ hưu, các đối tượng khác hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước, con số này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số cả nước. Còn nếu cộng toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương thì con số này lên tới 11 triệu người. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy.

Nước Mỹ có diện tích lớn xấp xỉ 30 lần nước ta, dân số gần gấp bốn lần nhưng đội ngũ công chức của họ chỉ có 2,1 triệu. Nhìn sang Trung Quốc thì chúng ta thấy đội ngũ công chức của họ cũng chỉ chiếm 2,8% dân số.

Như vậy, chúng ta thấy 160 người dân Mỹ chỉ nuôi một công chức, trong khi đó 40 người dân Việt Nam phải nuôi một công chức…” (“Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: 40 người dân phải nuôi một công chức”)

Chưa kể các tổ chức quần chúng công cần phải cấp kinh phí hoạt động như Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, và Hội Cựu chiến binh, cùng 28 hội đặc thù khác…khiến ngân sách quốc gia rơi vào tình cảnh khó khăn từ lâu nay.

Thử nhìn sang các quốc gia như Bắc Âu nói chung và Na Uy nói riêng, dù giàu có nhưng bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính công rất gọn nhẹ, một phần do các nước này ít dân, họ luôn luôn suy nghĩ làm thế nào để người dân có thể tự gánh bớt việc và nhà nước cũng như các công ty tư nhân khỏi phải thuê nhiều nhân công.

Người dân phải tự làm lấy hết, mọi thứ giao dịch được tiến hành qua internet, ví dụ sử dụng netbank để giao dịch chi tiêu tại nhà không cần phải đến ngân hàng chỉ trừ khi thật cần thiết, tự khai báo số điện hàng tháng qua internet chứ không cần có người đi ghi điện và trả tiền qua tài khoản ngân hàng, khai báo thuế, mua vé máy bay, đặt khách sạn, mua vé xem phim…qua internet. Khi lắp đặt điện thoại, khi sửa chữa bất cứ cái gì từ internet bị trục trặc chẳng hạn…thì gọi điện thoại cho cơ quan, công ty đó để được hướng dẫn và tự làm lấy chứ không có người tới làm thay, còn nếu bất cứ cái gì mà có người tới làm thì giá dịch vụ sẽ rất đắt, cho nên người dân phải tập làm tất cả mọi thứ.

Đã vậy các nước Bắc Âu còn tiến tới mức dùng máy móc để thay thế dần con người trong mọi công việc đơn giản. Ví dụ trong các siêu thị bây giờ bên cạnh các nhân viên ngồi cashier tính tiền cho khách hàng thì có một dãy máy tính tiền tự động, người mua sẽ sử dụng thẻ quẹt mã vạch của các món hàng mình mua và cuối cùng đi qua quầy tự động để trả tiền; đi vệ sinh công cộng bây giờ cũng không mấy nơi có người ngồi thu tiền nữa mà cứ tự động bỏ tiền vào máy, lấy cái giấy có mã vạch rồi quẹt cái mã vạch đó qua một cái máy scan bên ngoài nhà vệ sinh và cửa tự động mở ra cho ta đi vào; đi xem phim thì vẫn có thể mua vé tại rạp hay mua vé qua internet tại nhà, nhưng khi mua vé qua internet bây giờ các rạp họ không in vé ra cho khách như trước nữa mà họ sẽ gửi mã vạch vào điện thoại của người mua, khi đến rạp cứ việc giơ điện thoại có mã vạch ra cho người soát vé họ scan kiểm soát là xong…

Phần lớn mọi thứ chi tiêu bây giờ là bằng thẻ visa card, master card, credit card…chỉ trừ mua những thứ lặt vặt, chính phủ Thụy Điển còn tính đến chuyện trong tương lai gần sẽ hoàn toàn không sử dụng tiền mặt nữa, kể cả mua một chai nước ngọt hay một cái bánh mì. Các nước phát triển đang tiến dần tới một thực tế là tất cả những loại việc đơn giản sẽ giao dịch qua internet hoặc do máy móc tự động làm, con người do đó phải có trình độ, phải có những kỹ năng cao hơn thì mới kiếm được việc.

Mọi thứ chi tiết, giấy tờ hành chính liên quan đến mỗi công dân đều được lưu trữ vào hệ thống tư liệu của nhà nước, mỗi người chỉ cần có số cá nhân (personal number), khi đi tới bất cứ cơ quan nào người ta chỉ cần hỏi personal number là ra mọi thứ thông tin cần thiết.

Trong khi đó, ở những quốc gia lạc hậu mà lại đông dân như VN thì quá thừa người nên bất cứ việc gì cũng có thể thuê nhân công, từ ghi điện, lắp đặt điện thoại, đủ các loại dịch vụ sửa chữa từ sửa vá quần áo, sửa giày, đồng hồ, máy vi tính…trở đi, cái gì cũng có dịch vụ làm sẵn, kể cả dịch vụ đi du học hay kết hôn với người nước ngoài, muốn học cái gì cũng có người dạy và dạy cái gì cũng có người học.

Như vậy thì phù hợp với hoàn cảnh đông dân của VN. Và thuận lợi cho những ai có tiền là có đủ dịch vụ cần thiết, có người làm cho mình, mà giá nhân công ở VN thì rẻ rề, còn ở nước ngoài mà thuê người thì chỉ có chết tiền! Nhưng ngược lại, mặt tiêu cực là tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, khi có một tầng lớp người chỉ cần bỏ tiền ra là thuê được sức lạo động của người khác trong bất kỳ loại công việc gì dù đơn giản, và có một tầng lớp người chỉ chuyên đi làm các loại dịch vụ phổ thông phục dịch người khác. Và khi có thể kiếm sống được bằng những công việc đơn giản thì người ta không có như cầu phải tự học hỏi thêm, nâng cao mình hơn nữa.

Ngoài ra, có những điều đáng nói hơn ở đây. Thứ nhất là nền "kinh tế tiền mặt” ở VN. Cái này báo chí cũng đã nói nhiều lần. Một nền kinh tế mà mọi thứ giao dịch đều bằng tiền mặt như ở VN chỉ tồn tại ở những quốc gia lạc hậu, và chính việc giao dịch bằng tiền mặt như thế mới dẫn tới tình trạng là nhà nước không thể kiểm soát được nguồn gốc, đường đi của dòng tiền, tất cả những vấn nạn tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, thu nhập không minh bạch, kể cả rửa tiền…mới có cơ hội tồn tại, sinh sôi phát triền đến mức không thể khống chế, tiêu diệt như hiện nay.

Cứ thử nghĩ nếu mọi thứ giao dịch tiền bạc đều đi qua cổng ngân hàng, công khai sờ sờ đó thì những “căn bệnh” trên làm sao mà hoành hành được? Tất nhiên, cũng sẽ có, ngay cả những quốc gia được đánh giá chỉ số minh bạch, trong sạch cao cũng không thể nói là 100% không có tham nhũng hay trốn thuế, rửa tiền, nhưng mức độ ít hơn nhiều vì không dễ thực hiện.

Tuy nhiên, đối với một nhà cầm quyền không minh bạch như VN và với một bộ máy quen “bôi trơn” bằng tiền, quan chức cho tới cán bộ quen sống bằng “bổng, lậu” nhiều hơn bằng lương, quen “chân ngoài dài hơn chân trong” thì chắc là sẽ không thích như vậy. Chỉ riêng chuyện phải kê khai tài sản thôi cũng đủ chết các quan to quan nhỏ, lộ hết cả bí mật!

Thứ hai là sự rườm rà trong khâu giấy tờ, hành chính, một người dân khi ra đời, lớn lên, đi học, đi làm… ở VN phải cần không biết bao nhiêu loại giấy tờ, bao nhiêu lần kê khai; mãi đến gần đây mới thấy học theo các nước là đơn giản hóa với số cá nhân, personal number, và lưu trữ mọi thứ trong hệ thống, nhưng cũng không rõ đã thực hiện được chưa.

Bài báo “Bắt đầu cấp mã số cá nhân cho người dân từ năm 2016” trên tờ Người đưa tin viết từ năm 2014:

“Theo tính toán sơ bộ của Bộ Tư pháp, việc cung cấp số định danh cá nhân thay cho việc phải khai các thông tin cá nhân, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính sẽ giúp tiết kiệm thời gian điền thông tin, ước tính khoảng trên 461 tỷ đồng/năm. Nếu trừ đi các khoản chi phí tại 4 cấp chính quyền trong các giao dịch hành chính thì mới có thể tiết kiệm được tối thiểu là gần 2.500 tỷ đồng.

Theo thống kê, hiện nay trong số 5.400 thủ tục hành chính các loại thì có tới 1.600 thủ tục yêu cầu khai thông tin cá nhân liên quan tới giấy tờ của công dân. Với quy mô dân số lên tới gần 90 triệu, số lượng giao dịch hành chính công giữa công dân và cơ quan hành chính, sự nghiệp được thực hiện hàng năm trung bình khoảng 600.000 giao dịch/ngày. Phần lớn thủ tục hành chính đòi hỏi công dân phải tự chứng minh về nhân thân thông qua việc xuất trình hoặc nộp bản sao, trong khi mỗi công dân có thể sở hữu khoảng 20 loại giấy tờ…”

Và cuối cùng, bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính công quá nặng nề ở VN khiến ngân sách vốn còm cõi ngày càng hụt hơi. Như chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã vạch ra ở trên.

Mỗi người dân phải còng lưng nuôi cùng lúc hai bộ máy nhà nước rồi bộ máy đảng ngày càng phình to, thêm nhiều người, nhiều chức vụ, bên cạnh đó đội ngũ nhân viên ăn lương nhà nước quá đông, rồi đủ các loại tổ chức quần chúng công, hội này hội kia…chịu sao cho thấu. Rồi cũng sẽ đến lúc VN vỡ nợ mà thôi!

Có một câu hỏi rất đơn giản là tại sao đã cầm quyền hơn 7 thập kỷ ở miền Bắc và hơn 4 thập kỷ trên cả nước, nhưng trong rất nhiều khía cạnh, nhà nước cộng sản VN không thèm học hỏi những cái hay ở những nước đi trước, những nước phát triển, mà cứ để mặc cho những vấn đề tiêu cực, lạc hậu tồn tại hết năm này qua năm khác, và VN cứ càng ngày càng tụt hậu trong cái bãi lầy luẩn quẩn?

Nhưng có thể, câu trả lời cũng đơn giản không kém, là nhà nước này không thật tâm muốn cải cách, sửa đổi cái gì hết!

Song Chi

(Blog RFA)
16:30 Unknown
Đọc hai bài báo “Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: 40 người dân phải nuôi một công chức” (Pháp Luật TP.HCM), và “11 triệu người ăn lương: Ngân sách nào kham nổi?” (VietnamNet).

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói: “Bộ máy nhà nước của chúng ta hiện nay có khoảng 2,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức.

Chuyen gia kinh te Pham Chi Lan: 40 nguoi dan phai nuoi mot cong chuc - Anh 1
                                                 Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Nếu cộng cả đối tượng nghỉ hưu, các đối tượng khác hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước, con số này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số cả nước. Còn nếu cộng toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương thì con số này lên tới 11 triệu người. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy.

Nước Mỹ có diện tích lớn xấp xỉ 30 lần nước ta, dân số gần gấp bốn lần nhưng đội ngũ công chức của họ chỉ có 2,1 triệu. Nhìn sang Trung Quốc thì chúng ta thấy đội ngũ công chức của họ cũng chỉ chiếm 2,8% dân số.

Như vậy, chúng ta thấy 160 người dân Mỹ chỉ nuôi một công chức, trong khi đó 40 người dân Việt Nam phải nuôi một công chức…” (“Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: 40 người dân phải nuôi một công chức”)

Chưa kể các tổ chức quần chúng công cần phải cấp kinh phí hoạt động như Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, và Hội Cựu chiến binh, cùng 28 hội đặc thù khác…khiến ngân sách quốc gia rơi vào tình cảnh khó khăn từ lâu nay.

Thử nhìn sang các quốc gia như Bắc Âu nói chung và Na Uy nói riêng, dù giàu có nhưng bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính công rất gọn nhẹ, một phần do các nước này ít dân, họ luôn luôn suy nghĩ làm thế nào để người dân có thể tự gánh bớt việc và nhà nước cũng như các công ty tư nhân khỏi phải thuê nhiều nhân công.

Người dân phải tự làm lấy hết, mọi thứ giao dịch được tiến hành qua internet, ví dụ sử dụng netbank để giao dịch chi tiêu tại nhà không cần phải đến ngân hàng chỉ trừ khi thật cần thiết, tự khai báo số điện hàng tháng qua internet chứ không cần có người đi ghi điện và trả tiền qua tài khoản ngân hàng, khai báo thuế, mua vé máy bay, đặt khách sạn, mua vé xem phim…qua internet. Khi lắp đặt điện thoại, khi sửa chữa bất cứ cái gì từ internet bị trục trặc chẳng hạn…thì gọi điện thoại cho cơ quan, công ty đó để được hướng dẫn và tự làm lấy chứ không có người tới làm thay, còn nếu bất cứ cái gì mà có người tới làm thì giá dịch vụ sẽ rất đắt, cho nên người dân phải tập làm tất cả mọi thứ.

Đã vậy các nước Bắc Âu còn tiến tới mức dùng máy móc để thay thế dần con người trong mọi công việc đơn giản. Ví dụ trong các siêu thị bây giờ bên cạnh các nhân viên ngồi cashier tính tiền cho khách hàng thì có một dãy máy tính tiền tự động, người mua sẽ sử dụng thẻ quẹt mã vạch của các món hàng mình mua và cuối cùng đi qua quầy tự động để trả tiền; đi vệ sinh công cộng bây giờ cũng không mấy nơi có người ngồi thu tiền nữa mà cứ tự động bỏ tiền vào máy, lấy cái giấy có mã vạch rồi quẹt cái mã vạch đó qua một cái máy scan bên ngoài nhà vệ sinh và cửa tự động mở ra cho ta đi vào; đi xem phim thì vẫn có thể mua vé tại rạp hay mua vé qua internet tại nhà, nhưng khi mua vé qua internet bây giờ các rạp họ không in vé ra cho khách như trước nữa mà họ sẽ gửi mã vạch vào điện thoại của người mua, khi đến rạp cứ việc giơ điện thoại có mã vạch ra cho người soát vé họ scan kiểm soát là xong…

Phần lớn mọi thứ chi tiêu bây giờ là bằng thẻ visa card, master card, credit card…chỉ trừ mua những thứ lặt vặt, chính phủ Thụy Điển còn tính đến chuyện trong tương lai gần sẽ hoàn toàn không sử dụng tiền mặt nữa, kể cả mua một chai nước ngọt hay một cái bánh mì. Các nước phát triển đang tiến dần tới một thực tế là tất cả những loại việc đơn giản sẽ giao dịch qua internet hoặc do máy móc tự động làm, con người do đó phải có trình độ, phải có những kỹ năng cao hơn thì mới kiếm được việc.

Mọi thứ chi tiết, giấy tờ hành chính liên quan đến mỗi công dân đều được lưu trữ vào hệ thống tư liệu của nhà nước, mỗi người chỉ cần có số cá nhân (personal number), khi đi tới bất cứ cơ quan nào người ta chỉ cần hỏi personal number là ra mọi thứ thông tin cần thiết.

Trong khi đó, ở những quốc gia lạc hậu mà lại đông dân như VN thì quá thừa người nên bất cứ việc gì cũng có thể thuê nhân công, từ ghi điện, lắp đặt điện thoại, đủ các loại dịch vụ sửa chữa từ sửa vá quần áo, sửa giày, đồng hồ, máy vi tính…trở đi, cái gì cũng có dịch vụ làm sẵn, kể cả dịch vụ đi du học hay kết hôn với người nước ngoài, muốn học cái gì cũng có người dạy và dạy cái gì cũng có người học.

Như vậy thì phù hợp với hoàn cảnh đông dân của VN. Và thuận lợi cho những ai có tiền là có đủ dịch vụ cần thiết, có người làm cho mình, mà giá nhân công ở VN thì rẻ rề, còn ở nước ngoài mà thuê người thì chỉ có chết tiền! Nhưng ngược lại, mặt tiêu cực là tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, khi có một tầng lớp người chỉ cần bỏ tiền ra là thuê được sức lạo động của người khác trong bất kỳ loại công việc gì dù đơn giản, và có một tầng lớp người chỉ chuyên đi làm các loại dịch vụ phổ thông phục dịch người khác. Và khi có thể kiếm sống được bằng những công việc đơn giản thì người ta không có như cầu phải tự học hỏi thêm, nâng cao mình hơn nữa.

Ngoài ra, có những điều đáng nói hơn ở đây. Thứ nhất là nền "kinh tế tiền mặt” ở VN. Cái này báo chí cũng đã nói nhiều lần. Một nền kinh tế mà mọi thứ giao dịch đều bằng tiền mặt như ở VN chỉ tồn tại ở những quốc gia lạc hậu, và chính việc giao dịch bằng tiền mặt như thế mới dẫn tới tình trạng là nhà nước không thể kiểm soát được nguồn gốc, đường đi của dòng tiền, tất cả những vấn nạn tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, thu nhập không minh bạch, kể cả rửa tiền…mới có cơ hội tồn tại, sinh sôi phát triền đến mức không thể khống chế, tiêu diệt như hiện nay.

Cứ thử nghĩ nếu mọi thứ giao dịch tiền bạc đều đi qua cổng ngân hàng, công khai sờ sờ đó thì những “căn bệnh” trên làm sao mà hoành hành được? Tất nhiên, cũng sẽ có, ngay cả những quốc gia được đánh giá chỉ số minh bạch, trong sạch cao cũng không thể nói là 100% không có tham nhũng hay trốn thuế, rửa tiền, nhưng mức độ ít hơn nhiều vì không dễ thực hiện.

Tuy nhiên, đối với một nhà cầm quyền không minh bạch như VN và với một bộ máy quen “bôi trơn” bằng tiền, quan chức cho tới cán bộ quen sống bằng “bổng, lậu” nhiều hơn bằng lương, quen “chân ngoài dài hơn chân trong” thì chắc là sẽ không thích như vậy. Chỉ riêng chuyện phải kê khai tài sản thôi cũng đủ chết các quan to quan nhỏ, lộ hết cả bí mật!

Thứ hai là sự rườm rà trong khâu giấy tờ, hành chính, một người dân khi ra đời, lớn lên, đi học, đi làm… ở VN phải cần không biết bao nhiêu loại giấy tờ, bao nhiêu lần kê khai; mãi đến gần đây mới thấy học theo các nước là đơn giản hóa với số cá nhân, personal number, và lưu trữ mọi thứ trong hệ thống, nhưng cũng không rõ đã thực hiện được chưa.

Bài báo “Bắt đầu cấp mã số cá nhân cho người dân từ năm 2016” trên tờ Người đưa tin viết từ năm 2014:

“Theo tính toán sơ bộ của Bộ Tư pháp, việc cung cấp số định danh cá nhân thay cho việc phải khai các thông tin cá nhân, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết thủ tục hành chính sẽ giúp tiết kiệm thời gian điền thông tin, ước tính khoảng trên 461 tỷ đồng/năm. Nếu trừ đi các khoản chi phí tại 4 cấp chính quyền trong các giao dịch hành chính thì mới có thể tiết kiệm được tối thiểu là gần 2.500 tỷ đồng.

Theo thống kê, hiện nay trong số 5.400 thủ tục hành chính các loại thì có tới 1.600 thủ tục yêu cầu khai thông tin cá nhân liên quan tới giấy tờ của công dân. Với quy mô dân số lên tới gần 90 triệu, số lượng giao dịch hành chính công giữa công dân và cơ quan hành chính, sự nghiệp được thực hiện hàng năm trung bình khoảng 600.000 giao dịch/ngày. Phần lớn thủ tục hành chính đòi hỏi công dân phải tự chứng minh về nhân thân thông qua việc xuất trình hoặc nộp bản sao, trong khi mỗi công dân có thể sở hữu khoảng 20 loại giấy tờ…”

Và cuối cùng, bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính công quá nặng nề ở VN khiến ngân sách vốn còm cõi ngày càng hụt hơi. Như chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã vạch ra ở trên.

Mỗi người dân phải còng lưng nuôi cùng lúc hai bộ máy nhà nước rồi bộ máy đảng ngày càng phình to, thêm nhiều người, nhiều chức vụ, bên cạnh đó đội ngũ nhân viên ăn lương nhà nước quá đông, rồi đủ các loại tổ chức quần chúng công, hội này hội kia…chịu sao cho thấu. Rồi cũng sẽ đến lúc VN vỡ nợ mà thôi!

Có một câu hỏi rất đơn giản là tại sao đã cầm quyền hơn 7 thập kỷ ở miền Bắc và hơn 4 thập kỷ trên cả nước, nhưng trong rất nhiều khía cạnh, nhà nước cộng sản VN không thèm học hỏi những cái hay ở những nước đi trước, những nước phát triển, mà cứ để mặc cho những vấn đề tiêu cực, lạc hậu tồn tại hết năm này qua năm khác, và VN cứ càng ngày càng tụt hậu trong cái bãi lầy luẩn quẩn?

Nhưng có thể, câu trả lời cũng đơn giản không kém, là nhà nước này không thật tâm muốn cải cách, sửa đổi cái gì hết!

Song Chi

(Blog RFA)
Bài báo xuất hiện đúng vào lúc mọi người căng mắt vào chuyện 30 tấn cá chết do nhiễm độc chất phenol tại Vĩnh Linh, Quảng Trị khiến mọi người tin rằng ông đại tá công an nhà báo Nguyễn Như Phong đang tự thi hành khổ nhục kế để kéo dư luận về phía mình, tạm quên câu chuyện động trời 30 tấn cá mà nếu kéo ra thì người dân khó im lặng như từ bấy lâu nay.

                Ông Nguyễn Như Phong Tổng biên tập của tờ Năng Lương Mới (Petrotimes)

Với tư cách Tổng biên tập của tờ Năng Lương Mới (Petrotimes) ông Phong khuyên toàn bộ nhà báo Việt Nam hãy theo gương con chó để trở thành một nhà báo giỏi. Với ông Phong, chỉ có con đường duy nhất nếu không muốn thụt lại phía sau so với đồng nghiệp thì nhà báo Việt Nam phải biến thành chó, không còn cách nào khác.

Khi đăng bài viết có tựa “Nghề phóng viên phải như con chó ấy!” trên Petrotimes (1)  ông Phong đã liệt kê mọi “đức tính” mà ông cho là cao quý của con chó để người phóng viên noi theo. Với cách thuyết phục của ông, tuy rõ như ban ngày không còn gì để truy vấn, bài viết này chỉ bổ xung những đức tính khác của con chó có quốc tịch Việt Nam để tăng thêm tính thuyết phục cho phóng viên nào còn “lăn tăn” khi đọc bài viết khá ấn tượng này của một “chuyên gia” báo chí.

Sở dĩ phải mang con chó quốc tịch Việt Nam vì hai lẽ: Ông Phong đang nói về các phóng viên, nhà báo Việt Nam vì vậy không thể mang một con chó nước ngoài vào làm tấm gương cho họ soi. Tuy rất giống nhau về chủng loại nhưng chó ngoại lại khác về hành vi do được nuôi dưỡng trong môi trường khác xa với chó Việt nên những con vện, mực, hay vàng dù sao cũng hiện thực hơn.

Ông Phong khẳng định: “Nếu so sánh giữa nghề làm báo với những phẩm chất cao quý của con chó thì xem ra rất giống nhau” (2)

Trước nhất ông chứng minh: “Bất luận vào những hoàn cảnh nào, khi bị chủ mắng, thậm chí bị đánh đòn nó chỉ đau khổ cúp đuôi chui vào một xó, nhưng rồi chỉ ít phút sau nó lại ngoe nguẩy đuôi để đón chủ về”.

Ông Phong nói đúng, con chó được trời sinh ra có bộ óc khác xa với con người. Nó không có khả năng phân tích sự kiện đen hay trắng để xem việc chủ mắng, thậm chí chủ đánh là đúng hay sai. Chó chỉ biết nghe một thứ tiếng từ chủ và vì vậy nó cụp đuôi trốn xuống gậm giường tránh đòn. Đây là đặc tính của con chó Việt Nam, luôn bị chủ đánh khi giận dữ hay khi không nghe được tiếng người, rất gần với tính cách các nhà báo hiện nay: im lặng trước bất cứ việc lớn bé nào có quyền lợi của người dân khi chủ chưa cho phép viết và họ rất sợ các vết roi của chủ. Trong phạm trù này họ như con chó rồi ông không cần phải dạy bảo.

Ông Phong viết:“Chó có đôi tai cực thính, để phát hiện mọi tiếng động khả nghi và kể cả những tiếng động báo hiệu tin vui. Chó có cái mũi thính, để phát hiện ra có chất độc hay không, có thuốc nổ, có ma túy hay không, hay bất cứ điều gì bất bình thường trong một khối bừa bộn vật chất”.

Ông khuyên nhà báo phải có mũi thính và tai thính như chó để săn tin, viết bài. Nhưng hình như ông quên một điều rất quan trọng, khi phóng viên trở thành chó thì cây viết lại vô dụng mất rồi. Những con chó phóng viên không biết viết, nó chỉ biết sủa.

À may! ông Phong “điều chỉnh”: “Chó phải biết sủa lên khi có tiếng động lạ, để cảnh báo cho chủ có sự bất thường sắp tới mà cảnh giác”

Vâng thì đúng đấy, nhưng chỉ đúng với chó. Là người, nhất là một phóng viên mà ông bảo họ “sủa” thì e rằng ông hơi lạm…chữ. Giang hồ có câu: “Làm người ai lại như thế!”

Tôi thích nhất câu này của ông: “Chỉ có một điều rằng, muốn có được một chú chó hay, mang tất cả những phẩm chất cao quý của loài chó, thì ngoài tình thương yêu chăm sóc của chủ ra, nó cũng phải được dạy dỗ, chỉ bảo từng li từng tí. Nó cũng sẽ bị phạt như phạm lỗi và cũng sẽ được thưởng khi có công”.

Ý ông muốn gửi gấm cho những phóng viên thuộc trường phái “chó’ là phải được dạy dỗ cho ra con chó, tức là toàn tâm toàn ý phục vụ một nhúm người nào đó có công nuôi dạy nó. Khi đã thuần thục rồi thì chính là lúc người “phóng viên” đã có thể tự hào mình là “nhà chó” chứ không cần phải mang danh là “nhà báo” nữa.

Ông Nguyễn Như Phong có lẽ khi vội quá mà quên mất những đặc tính mà loài chó Việt Nam mới có: ăn bẩn và càng bẩn càng thích.

Chó trung thành với chủ là tất nhiên và đây là lý do khiến loài người yêu thương nó. Chó thích ăn “phân” người cũng là lẽ tất nhiên không cần phân tích. Phân của chủ thì lại càng háo hức hơn, và do đặc tính trung thành nên chó sẵn sàng “làm sạch” đít con của chủ sau khi hả hê tống khứ phân của nó ra ngoài. Đặc tính này nếu áp dụng vào nhà báo mà ông Phong nói sẽ là sự so sánh thú vị bất ngờ: nhà báo chó nào lại không ăn bẩn và liếm láp?

Chó còn đặc tính mà ông cha ta đã nhận ra hàng ngàn năm qua sau khi từ chó sói trở thành chó nhà. Đó là hành vi “chó hùa”.

Các nhà báo chó từng chứng tỏ khả năng này một cách suất sắc. Khi được chỉ thị của chủ chúng không ngại hùa nhau sủa cùng một thứ bài bản, một thứ âm sắc và nhất là cùng một thứ tiếng xảo trá bắt chước ngôn ngữ loài người. Chúng hãnh diện khi được chủ ra lệnh, hãnh diện động não tìm ra những từ ngữ trơ trẽn và hãnh diện “hợp sủa” bài chó hùa đối với một con người nào đó làm mích lòng chủ của chúng.

Chó còn có đặc tính ăn chực mà người ta đã ưu ái tặng cho chúng hình ảnh “chó chực xương” đầy khinh bỉ. Nếu nhà báo Việt Nam hóng tin cũng giống như sự chực xương của chó thì “chó chực tin” đáng đưa vào bài học vỡ lòng cho sinh viên báo chí trong các trường đại học. Hình ảnh này vừa khớp cho mảng tin được quăng ra từ một nguồn duy nhất cho các con chó nhà báo và chúng đua nhau “loan tải” một cách hào hứng như được quăng một mẩu xương thừa.

Còn nữa, nhưng đây mới là điều quan trọng nhất khi nhà báo trở thành nhà chó.

Ông Nguyễn Như Phong hình như tránh né câu mà con người thường chửi nhau, đó là cụm từ cay nghiệt: đồ chó đẻ.

Người Việt khen nhau cho chết và chửi nhau thì kinh khủng hơn người ngoại quốc rất nhiều. Đồ chó đẻ là tiếng chửi nặng nề và khủng khiếp nhất trong tự điển “chửi” của Việt Nam.

Chó là loài vật có đặc tính giao cấu mà con người gọi là loạn luân. Chó mẹ có thể cho chó con trưởng thành giao cấu, chó cha có thể vô tư dính lẹo với chó con và vì vậy những con chó thế hệ sau được con người lấy ra để chửi “đồ chó đẻ”.

Những con chó được đẻ ra trong tình trạng như thế không thể chấp nhận trong cộng đồng con người và nếu các “nhà chó” của ông Nguyễn Như Phong giao cấu bản tin, bài viết trên trang giấy giống như loài chó giao cấu nhau thì phải gọi chúng bằng gì ngoài cái tên đồ chó đẻ?

Cánh Cò

----------------
Chú thích


 (2)Chữ của ông Nguyễn Như Phong

(Blog RFA)
16:30 Unknown
Bài báo xuất hiện đúng vào lúc mọi người căng mắt vào chuyện 30 tấn cá chết do nhiễm độc chất phenol tại Vĩnh Linh, Quảng Trị khiến mọi người tin rằng ông đại tá công an nhà báo Nguyễn Như Phong đang tự thi hành khổ nhục kế để kéo dư luận về phía mình, tạm quên câu chuyện động trời 30 tấn cá mà nếu kéo ra thì người dân khó im lặng như từ bấy lâu nay.

                Ông Nguyễn Như Phong Tổng biên tập của tờ Năng Lương Mới (Petrotimes)

Với tư cách Tổng biên tập của tờ Năng Lương Mới (Petrotimes) ông Phong khuyên toàn bộ nhà báo Việt Nam hãy theo gương con chó để trở thành một nhà báo giỏi. Với ông Phong, chỉ có con đường duy nhất nếu không muốn thụt lại phía sau so với đồng nghiệp thì nhà báo Việt Nam phải biến thành chó, không còn cách nào khác.

Khi đăng bài viết có tựa “Nghề phóng viên phải như con chó ấy!” trên Petrotimes (1)  ông Phong đã liệt kê mọi “đức tính” mà ông cho là cao quý của con chó để người phóng viên noi theo. Với cách thuyết phục của ông, tuy rõ như ban ngày không còn gì để truy vấn, bài viết này chỉ bổ xung những đức tính khác của con chó có quốc tịch Việt Nam để tăng thêm tính thuyết phục cho phóng viên nào còn “lăn tăn” khi đọc bài viết khá ấn tượng này của một “chuyên gia” báo chí.

Sở dĩ phải mang con chó quốc tịch Việt Nam vì hai lẽ: Ông Phong đang nói về các phóng viên, nhà báo Việt Nam vì vậy không thể mang một con chó nước ngoài vào làm tấm gương cho họ soi. Tuy rất giống nhau về chủng loại nhưng chó ngoại lại khác về hành vi do được nuôi dưỡng trong môi trường khác xa với chó Việt nên những con vện, mực, hay vàng dù sao cũng hiện thực hơn.

Ông Phong khẳng định: “Nếu so sánh giữa nghề làm báo với những phẩm chất cao quý của con chó thì xem ra rất giống nhau” (2)

Trước nhất ông chứng minh: “Bất luận vào những hoàn cảnh nào, khi bị chủ mắng, thậm chí bị đánh đòn nó chỉ đau khổ cúp đuôi chui vào một xó, nhưng rồi chỉ ít phút sau nó lại ngoe nguẩy đuôi để đón chủ về”.

Ông Phong nói đúng, con chó được trời sinh ra có bộ óc khác xa với con người. Nó không có khả năng phân tích sự kiện đen hay trắng để xem việc chủ mắng, thậm chí chủ đánh là đúng hay sai. Chó chỉ biết nghe một thứ tiếng từ chủ và vì vậy nó cụp đuôi trốn xuống gậm giường tránh đòn. Đây là đặc tính của con chó Việt Nam, luôn bị chủ đánh khi giận dữ hay khi không nghe được tiếng người, rất gần với tính cách các nhà báo hiện nay: im lặng trước bất cứ việc lớn bé nào có quyền lợi của người dân khi chủ chưa cho phép viết và họ rất sợ các vết roi của chủ. Trong phạm trù này họ như con chó rồi ông không cần phải dạy bảo.

Ông Phong viết:“Chó có đôi tai cực thính, để phát hiện mọi tiếng động khả nghi và kể cả những tiếng động báo hiệu tin vui. Chó có cái mũi thính, để phát hiện ra có chất độc hay không, có thuốc nổ, có ma túy hay không, hay bất cứ điều gì bất bình thường trong một khối bừa bộn vật chất”.

Ông khuyên nhà báo phải có mũi thính và tai thính như chó để săn tin, viết bài. Nhưng hình như ông quên một điều rất quan trọng, khi phóng viên trở thành chó thì cây viết lại vô dụng mất rồi. Những con chó phóng viên không biết viết, nó chỉ biết sủa.

À may! ông Phong “điều chỉnh”: “Chó phải biết sủa lên khi có tiếng động lạ, để cảnh báo cho chủ có sự bất thường sắp tới mà cảnh giác”

Vâng thì đúng đấy, nhưng chỉ đúng với chó. Là người, nhất là một phóng viên mà ông bảo họ “sủa” thì e rằng ông hơi lạm…chữ. Giang hồ có câu: “Làm người ai lại như thế!”

Tôi thích nhất câu này của ông: “Chỉ có một điều rằng, muốn có được một chú chó hay, mang tất cả những phẩm chất cao quý của loài chó, thì ngoài tình thương yêu chăm sóc của chủ ra, nó cũng phải được dạy dỗ, chỉ bảo từng li từng tí. Nó cũng sẽ bị phạt như phạm lỗi và cũng sẽ được thưởng khi có công”.

Ý ông muốn gửi gấm cho những phóng viên thuộc trường phái “chó’ là phải được dạy dỗ cho ra con chó, tức là toàn tâm toàn ý phục vụ một nhúm người nào đó có công nuôi dạy nó. Khi đã thuần thục rồi thì chính là lúc người “phóng viên” đã có thể tự hào mình là “nhà chó” chứ không cần phải mang danh là “nhà báo” nữa.

Ông Nguyễn Như Phong có lẽ khi vội quá mà quên mất những đặc tính mà loài chó Việt Nam mới có: ăn bẩn và càng bẩn càng thích.

Chó trung thành với chủ là tất nhiên và đây là lý do khiến loài người yêu thương nó. Chó thích ăn “phân” người cũng là lẽ tất nhiên không cần phân tích. Phân của chủ thì lại càng háo hức hơn, và do đặc tính trung thành nên chó sẵn sàng “làm sạch” đít con của chủ sau khi hả hê tống khứ phân của nó ra ngoài. Đặc tính này nếu áp dụng vào nhà báo mà ông Phong nói sẽ là sự so sánh thú vị bất ngờ: nhà báo chó nào lại không ăn bẩn và liếm láp?

Chó còn đặc tính mà ông cha ta đã nhận ra hàng ngàn năm qua sau khi từ chó sói trở thành chó nhà. Đó là hành vi “chó hùa”.

Các nhà báo chó từng chứng tỏ khả năng này một cách suất sắc. Khi được chỉ thị của chủ chúng không ngại hùa nhau sủa cùng một thứ bài bản, một thứ âm sắc và nhất là cùng một thứ tiếng xảo trá bắt chước ngôn ngữ loài người. Chúng hãnh diện khi được chủ ra lệnh, hãnh diện động não tìm ra những từ ngữ trơ trẽn và hãnh diện “hợp sủa” bài chó hùa đối với một con người nào đó làm mích lòng chủ của chúng.

Chó còn có đặc tính ăn chực mà người ta đã ưu ái tặng cho chúng hình ảnh “chó chực xương” đầy khinh bỉ. Nếu nhà báo Việt Nam hóng tin cũng giống như sự chực xương của chó thì “chó chực tin” đáng đưa vào bài học vỡ lòng cho sinh viên báo chí trong các trường đại học. Hình ảnh này vừa khớp cho mảng tin được quăng ra từ một nguồn duy nhất cho các con chó nhà báo và chúng đua nhau “loan tải” một cách hào hứng như được quăng một mẩu xương thừa.

Còn nữa, nhưng đây mới là điều quan trọng nhất khi nhà báo trở thành nhà chó.

Ông Nguyễn Như Phong hình như tránh né câu mà con người thường chửi nhau, đó là cụm từ cay nghiệt: đồ chó đẻ.

Người Việt khen nhau cho chết và chửi nhau thì kinh khủng hơn người ngoại quốc rất nhiều. Đồ chó đẻ là tiếng chửi nặng nề và khủng khiếp nhất trong tự điển “chửi” của Việt Nam.

Chó là loài vật có đặc tính giao cấu mà con người gọi là loạn luân. Chó mẹ có thể cho chó con trưởng thành giao cấu, chó cha có thể vô tư dính lẹo với chó con và vì vậy những con chó thế hệ sau được con người lấy ra để chửi “đồ chó đẻ”.

Những con chó được đẻ ra trong tình trạng như thế không thể chấp nhận trong cộng đồng con người và nếu các “nhà chó” của ông Nguyễn Như Phong giao cấu bản tin, bài viết trên trang giấy giống như loài chó giao cấu nhau thì phải gọi chúng bằng gì ngoài cái tên đồ chó đẻ?

Cánh Cò

----------------
Chú thích


 (2)Chữ của ông Nguyễn Như Phong

(Blog RFA)

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Suốt chiều dài đất nước này, dường như không có chỗ nào là không có độc. Từ chất độc Dioxin để khai hoang trong cuộc chiến tranh cách đây ngót nghét nửa thế kỉ cho đến độc tố trong thực phẩm ngấm dần vào cơ thể, bào mòn từng tế bào trong thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và gần đây nhất là tứ bề độc trùng vây, độc tố trên biển, độc tố trong ao hồ… Có vẻ như đất nước này đang đối mặt với độc tố và nguy cơ diệt vong không phải là không có. Nhưng, đáng sợ nhất chính là độc tố trong tâm hồn con người.

Bởi độc ngoài tự nhiên, trong không gian, người ta có thể nắm tay nhau, tựa lưng nhau để loại bỏ nó, một ngày không xong thì mười ngày, một năm không xong thì mười năm, trăm năm, còn con người thì sự sống vẫn có chỗ để vươn dậy dưới ánh mặt trời.

Nhưng một khi tâm hồn con người trở thành cái túi chứa độc tố để giết hại đồng loại và giết hại chính mình thì e rằng sẽ khó có ông trời nào cứu được. Cho dù Đức Chúa hay Thượng Đế có hiện ra để xắn tay cứu vớt thì không chừng chính Thượng Đế hay Đức Chúa bị chết vì độc đầu tiên. Rất tiếc là đất nước nhỏ bé, nghèo khổ và kinh qua nhiều thăng trầm dâu bể như quê hương Việt Nam lại đang rơi vào tình trạng độc tố tâm hồn đã phát tác, đã ám hại tha nhân và ám hại chính mình.

Giả sử trong cuộc chiến Nam – Bắc Việt Nam, nếu quân nằm vùng của phía Bắc không dựa vào rừng núi, dựa vào dân để thỉnh thoảng lại đột kích thành phố, khủng bố và ám sát (rồi gọi đó là đánh du kích, nghĩa là đánh chơi, chỉ riêng hai chữ ‘đánh chơi’ cũng đủ nói lên bản chất man rợ của các cuộc ám sát, khủng bố này) thì cũng chẳng có thùng thuốc Dioxin nào rải vào núi rừng Trường Sơn và cũng chẳng có những nạn nhân “chất độc màu da cam”. Và hổ ngươi nhất là cũng sẽ chẳng có những cuộc kiện tụng, đòi Mỹ phải đền bù cho nạn nhân chất độc màu da cam.

Chỉ riêng chuyện đền bù cho nạn nhân chất độc da cam không thôi cũng có đến một ngàn lẻ một chuyện tệ hại để nói. Nào là đền và nuôi không đúng người, nhiều người mẹ sinh ba bốn đứa con lành mạnh, có một đứa thần kinh không bình thường, ông cha chạy vạy để đứa con được hưởng chế độ chất độc da cam. Rồi nhiều gia đình có con nhiễm chất độc da cam, ba đứa chứ không phải một, về mặt thủ tục thì các nạn nhân này có chế độ nhưng thực ra thì họ tồn tại héo mòn cho đến lúc chết đi, gia đình nó lại nhờ xóm làng chôn cất và không nhận được một đồng lẻ nào của chế độ này.

Rồi chuyện khai tăng số lượng nạn nhân. Nói một cách nghiêm túc, nếu phía Mỹ có một cuộc điều tra về độ chính xác số nạn nhân chất độc da cam cũng như chế độ đền bù, họ chỉ cần bỏ chưa đến một phần ba số tiền đền bù suốt bao nhiêu năm nay cũng đã quá đủ. Bởi tiền đền bù cho nạn nhân chất độc da cam đã vào nhà quan chức, người ta đã lấy số lớn và vứt vài đồng lẻ qua cửa sổ cho nạn nhân.

Trong khi đó, câu chuyện gần đây nhất, biển bị nhiễm độc, nguy cơ lâu dài cho dân tộc, quốc gia hiện ra trước mắt và mối nguy diệt vong đang đến rất gần, nó đến từ nhiều hướng, từ thực phẩm Trung Quốc cho đến hành tung của Trung Quốc trên biển Đông thì nhà nước lại ngậm câm như hến và còn có những hành tung, thủ đoạn nhằm bịt miệng dân. Vì sao lại có chuyện trái ngược, mâu thuẫn như vậy?

Nói cho cùng thì nguyên nhân của tất cả những vấn đề tệ hại như ngày hôm nay của Việt Nam là do độc tố trong tâm hồn con người đã phát tác, thứ độc tố của lòng ích kỉ, tính vụ lợi và lòng thù hận. Trong suốt bốn mươi mốt năm gọi là “thống nhất hai miền đất nước”, các thế hệ trẻ Việt Nam đã học được gì trong các bài học xã hội chủ nghĩa ngoài lòng thù hận đối với Mỹ, Ngụy?

Và tại sao người ta vẫn tiếp tục kiện tụng một cách dai dẳng vụ chất độc Dioxin? Bởi vì đó là một phi vụ kiện tụng có thể mang lại mối lợi lớn cho những ai bỏ công theo đuổi.

Nếu như Trung Quốc không có những tác động và ràng buộc về chính trị, kinh tế, về chuyện thâm cung bí sử bán nước của các ông lãnh đạo chóp bu Cộng sản Việt Nam, hoặc giả nếu như nhà nước Trung Quốc là một nhà nước sòng phẵng, có cách hành xử giống như nhà nước Mỹ, sẵn sàng chung đủ, đền bù đủ những gì họ gây ra khi mọi việc đã được phán quyết bởi tòa án thì chắc chắn vụ cá chết ở bờ biển miền Trung không im hơi lặng tiếng như đang thấy. Hoặc ngược lại, nếu nhà nước và doanh nhân Trung Quốc cũng không có thứ văn hóa hối lộ, đút lót và sẵn sang minh bạch mọi vấn đề thông qua tòa án như nhà nước, doanh nhân Mỹ thì câu chuyện cá chết dọc bờ biển miền Trung đã được làm sáng tỏ.

Bởi vì sự im lặng đầy tính phản động của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam diễn ra suốt hai tháng nay là có lý do của nó. Hoặc là nó sẽ không mang lại lợi lộc gì cho giới cán bộ chóp bu cũng như giới cán bộ địa phương nếu phanh phui nó ra. Hoặc là đã có sự thông đồng, đút lót, hối lộ giữa doanh nhân Trung Quốc (mà bên trên nó là sự chỉ định của nhà nước Trung Quốc) với giới cán bộ từ trung ương xuống địa phương Việt Nam.

Vì hối lộ, đút lót để qua chuyện và nhận hối lộ, nhận đút lót để làm ngơ mọi chuyện, đẩy vào trạng thái chìm xuồng vốn là thứ văn hóa cốt lõi của giới cán bộ Cộng sản. Vì sao lại có chuyện thối nát này?

Vì lẽ, nền tảng hình thành và tồn tại của chủ nghĩa Cộng sản không phải là lòng yêu thương, tình đồng loại hay sự dấn thân cho tự do nhân dân mà hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh của người Cộng sản hình thành trên nền tảng của lòng ích kỉ, tính thù hận và óc vụ lợi. Lúc mới hình thành, người Cộng sản đã dựa vào hạt gạo tình thương của nhân dân để mà sống, đến khi phát triển, có chỗ dựa thì họ quay sang đề phòng nhân dân và hoàn toàn xa rời nhân dân. Ngay cả nhân dân miền Bắc vào sinh ra tử với họ cũng bị nghi kị và luôn sống trong bóng tối của nghi kị, giả dối và thù hận.

Đến khi có được quyền lực trên tay, họ tồn tại bằng cách duy trì lòng thù hận, giáo dục về lòng thù hận và phát triển lòng thù hận. Lòng thù hận lưu cửu trong lòng chế độ và nảy nở trong nhân dân thông qua giáo dục đã cô cặn thành chất độc, nó kích thích tính ích kỉ, sự dửng dưng và vô cảm trước nỗi đau đồng loại. Và chưa bao giờ mà thứ chất độc trong tâm hồn lại hoành hành dân tộc Việt Nam như bây giờ. Chất độc tâm hồn chảy từ hệ thống cầm quyền trung ương đến hệ thống cầm quyền địa phương, từ người dân chân lấm tay bùn không có hiểu biết cho đến những trí thức phục vụ nhà nước.

Và một khi chất độc tâm hồn đã phát tác, thì mọi thứ độc tố khác chỉ mang tính phụ họa để nhanh chóng giết chết dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam. Công trạng lớn lao trong việc tiêu hủy dân tộc Việt Nam, có lẽ phải dành cho người Cộng sản!

Viết Từ Sài Gòn

(Blog RFA)
21:14 Unknown
Suốt chiều dài đất nước này, dường như không có chỗ nào là không có độc. Từ chất độc Dioxin để khai hoang trong cuộc chiến tranh cách đây ngót nghét nửa thế kỉ cho đến độc tố trong thực phẩm ngấm dần vào cơ thể, bào mòn từng tế bào trong thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và gần đây nhất là tứ bề độc trùng vây, độc tố trên biển, độc tố trong ao hồ… Có vẻ như đất nước này đang đối mặt với độc tố và nguy cơ diệt vong không phải là không có. Nhưng, đáng sợ nhất chính là độc tố trong tâm hồn con người.

Bởi độc ngoài tự nhiên, trong không gian, người ta có thể nắm tay nhau, tựa lưng nhau để loại bỏ nó, một ngày không xong thì mười ngày, một năm không xong thì mười năm, trăm năm, còn con người thì sự sống vẫn có chỗ để vươn dậy dưới ánh mặt trời.

Nhưng một khi tâm hồn con người trở thành cái túi chứa độc tố để giết hại đồng loại và giết hại chính mình thì e rằng sẽ khó có ông trời nào cứu được. Cho dù Đức Chúa hay Thượng Đế có hiện ra để xắn tay cứu vớt thì không chừng chính Thượng Đế hay Đức Chúa bị chết vì độc đầu tiên. Rất tiếc là đất nước nhỏ bé, nghèo khổ và kinh qua nhiều thăng trầm dâu bể như quê hương Việt Nam lại đang rơi vào tình trạng độc tố tâm hồn đã phát tác, đã ám hại tha nhân và ám hại chính mình.

Giả sử trong cuộc chiến Nam – Bắc Việt Nam, nếu quân nằm vùng của phía Bắc không dựa vào rừng núi, dựa vào dân để thỉnh thoảng lại đột kích thành phố, khủng bố và ám sát (rồi gọi đó là đánh du kích, nghĩa là đánh chơi, chỉ riêng hai chữ ‘đánh chơi’ cũng đủ nói lên bản chất man rợ của các cuộc ám sát, khủng bố này) thì cũng chẳng có thùng thuốc Dioxin nào rải vào núi rừng Trường Sơn và cũng chẳng có những nạn nhân “chất độc màu da cam”. Và hổ ngươi nhất là cũng sẽ chẳng có những cuộc kiện tụng, đòi Mỹ phải đền bù cho nạn nhân chất độc màu da cam.

Chỉ riêng chuyện đền bù cho nạn nhân chất độc da cam không thôi cũng có đến một ngàn lẻ một chuyện tệ hại để nói. Nào là đền và nuôi không đúng người, nhiều người mẹ sinh ba bốn đứa con lành mạnh, có một đứa thần kinh không bình thường, ông cha chạy vạy để đứa con được hưởng chế độ chất độc da cam. Rồi nhiều gia đình có con nhiễm chất độc da cam, ba đứa chứ không phải một, về mặt thủ tục thì các nạn nhân này có chế độ nhưng thực ra thì họ tồn tại héo mòn cho đến lúc chết đi, gia đình nó lại nhờ xóm làng chôn cất và không nhận được một đồng lẻ nào của chế độ này.

Rồi chuyện khai tăng số lượng nạn nhân. Nói một cách nghiêm túc, nếu phía Mỹ có một cuộc điều tra về độ chính xác số nạn nhân chất độc da cam cũng như chế độ đền bù, họ chỉ cần bỏ chưa đến một phần ba số tiền đền bù suốt bao nhiêu năm nay cũng đã quá đủ. Bởi tiền đền bù cho nạn nhân chất độc da cam đã vào nhà quan chức, người ta đã lấy số lớn và vứt vài đồng lẻ qua cửa sổ cho nạn nhân.

Trong khi đó, câu chuyện gần đây nhất, biển bị nhiễm độc, nguy cơ lâu dài cho dân tộc, quốc gia hiện ra trước mắt và mối nguy diệt vong đang đến rất gần, nó đến từ nhiều hướng, từ thực phẩm Trung Quốc cho đến hành tung của Trung Quốc trên biển Đông thì nhà nước lại ngậm câm như hến và còn có những hành tung, thủ đoạn nhằm bịt miệng dân. Vì sao lại có chuyện trái ngược, mâu thuẫn như vậy?

Nói cho cùng thì nguyên nhân của tất cả những vấn đề tệ hại như ngày hôm nay của Việt Nam là do độc tố trong tâm hồn con người đã phát tác, thứ độc tố của lòng ích kỉ, tính vụ lợi và lòng thù hận. Trong suốt bốn mươi mốt năm gọi là “thống nhất hai miền đất nước”, các thế hệ trẻ Việt Nam đã học được gì trong các bài học xã hội chủ nghĩa ngoài lòng thù hận đối với Mỹ, Ngụy?

Và tại sao người ta vẫn tiếp tục kiện tụng một cách dai dẳng vụ chất độc Dioxin? Bởi vì đó là một phi vụ kiện tụng có thể mang lại mối lợi lớn cho những ai bỏ công theo đuổi.

Nếu như Trung Quốc không có những tác động và ràng buộc về chính trị, kinh tế, về chuyện thâm cung bí sử bán nước của các ông lãnh đạo chóp bu Cộng sản Việt Nam, hoặc giả nếu như nhà nước Trung Quốc là một nhà nước sòng phẵng, có cách hành xử giống như nhà nước Mỹ, sẵn sàng chung đủ, đền bù đủ những gì họ gây ra khi mọi việc đã được phán quyết bởi tòa án thì chắc chắn vụ cá chết ở bờ biển miền Trung không im hơi lặng tiếng như đang thấy. Hoặc ngược lại, nếu nhà nước và doanh nhân Trung Quốc cũng không có thứ văn hóa hối lộ, đút lót và sẵn sang minh bạch mọi vấn đề thông qua tòa án như nhà nước, doanh nhân Mỹ thì câu chuyện cá chết dọc bờ biển miền Trung đã được làm sáng tỏ.

Bởi vì sự im lặng đầy tính phản động của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam diễn ra suốt hai tháng nay là có lý do của nó. Hoặc là nó sẽ không mang lại lợi lộc gì cho giới cán bộ chóp bu cũng như giới cán bộ địa phương nếu phanh phui nó ra. Hoặc là đã có sự thông đồng, đút lót, hối lộ giữa doanh nhân Trung Quốc (mà bên trên nó là sự chỉ định của nhà nước Trung Quốc) với giới cán bộ từ trung ương xuống địa phương Việt Nam.

Vì hối lộ, đút lót để qua chuyện và nhận hối lộ, nhận đút lót để làm ngơ mọi chuyện, đẩy vào trạng thái chìm xuồng vốn là thứ văn hóa cốt lõi của giới cán bộ Cộng sản. Vì sao lại có chuyện thối nát này?

Vì lẽ, nền tảng hình thành và tồn tại của chủ nghĩa Cộng sản không phải là lòng yêu thương, tình đồng loại hay sự dấn thân cho tự do nhân dân mà hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh của người Cộng sản hình thành trên nền tảng của lòng ích kỉ, tính thù hận và óc vụ lợi. Lúc mới hình thành, người Cộng sản đã dựa vào hạt gạo tình thương của nhân dân để mà sống, đến khi phát triển, có chỗ dựa thì họ quay sang đề phòng nhân dân và hoàn toàn xa rời nhân dân. Ngay cả nhân dân miền Bắc vào sinh ra tử với họ cũng bị nghi kị và luôn sống trong bóng tối của nghi kị, giả dối và thù hận.

Đến khi có được quyền lực trên tay, họ tồn tại bằng cách duy trì lòng thù hận, giáo dục về lòng thù hận và phát triển lòng thù hận. Lòng thù hận lưu cửu trong lòng chế độ và nảy nở trong nhân dân thông qua giáo dục đã cô cặn thành chất độc, nó kích thích tính ích kỉ, sự dửng dưng và vô cảm trước nỗi đau đồng loại. Và chưa bao giờ mà thứ chất độc trong tâm hồn lại hoành hành dân tộc Việt Nam như bây giờ. Chất độc tâm hồn chảy từ hệ thống cầm quyền trung ương đến hệ thống cầm quyền địa phương, từ người dân chân lấm tay bùn không có hiểu biết cho đến những trí thức phục vụ nhà nước.

Và một khi chất độc tâm hồn đã phát tác, thì mọi thứ độc tố khác chỉ mang tính phụ họa để nhanh chóng giết chết dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam. Công trạng lớn lao trong việc tiêu hủy dân tộc Việt Nam, có lẽ phải dành cho người Cộng sản!

Viết Từ Sài Gòn

(Blog RFA)
Một thung lũng ở Hà Giang. Ảnh từ trang này dẫn từ Zing.
Nước Việt nam 4/5 là miền đồi núi, 1/5 là đồng bằng. Vùng miền núi chủ yếu thuộc địa phận cư trú của các dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng chủ yếu là người Kinh. Nhìn chung, có thể nói vùng miền núi nghèo hơn hẳn đồng bằng, và trong vùng miền núi thì người các dân tộc thiểu số lại nghèo nhất. Dòng từ thiện do đó chủ yếu đi từ miền xuôi lên miền ngược, từ người Kinh đến người dân tộc. Nay trong tranh luận về từ thiện nổi lên mấy câu hỏi: Người dân tộc có thật nghèo không? Họ nghèo là do làm sao, có phải do họ lười và ngu không? Và ta nên cho họ mì tôm, áo ấm hay là dạy cho họ cách kiếm sống bền vững?

Xét lại, hơn 100 năm trước đây, đa số vùng núi là khu tự trị của các dân tộc thiểu số, có thông thương nhất định với miền xuôi, nhưng về cơ bản là tự cung tự cấp. Người Pháp là người đầu tiên đã làm những tuyến đường nhựa, đường tàu kết nối từ miền xuôi lên miền ngược, chủ yếu để khai thác tài nguyên, nhưng về cơ bản, người Pháp cũng chưa lấy được gì nhiều. Tới những năm 50, đa số diện tích vùng đồi núi vẫn là rừng, mà chủ yếu là rừng giàu, rừng nguyên sinh. Mặc dù nhiều dân tộc miền núi có cách sống du canh du cư, nhưng sau nhiều ngàn năm cư trú, luân chuyển, về cơ bản tài nguyên rừng không bị cạn kiệt. Rừng là vàng, và như vậy các dân tộc này là giàu, ít nhất theo tiêu chí riêng của họ.
Ở Đồng Văn. Ảnh từ trang này dẫn từ Zing.
50 năm trở lại đây, chúng ta, người Kinh và chính quyền, đã mở nhiều đường lên miền núi, về cơ bản đã phá tan tất cả tài nguyên rừng, biến chúng thành những vùng đất trống đồi trọc, với các thảm hoạ sói mòn, sạt lở, lũ ống lũ quét. Sau đó ta dồn họ vào định cư ở những bản làng trơ trụi, xung quanh chẳng còn tài nguyên gì. Nếu còn chút đất tốt thì ta lấy làm đồn điền, còn chút rừng thì ta khoanh để bảo tồn, làm du lịch, cũng cấm không được khai thác. Như vậy, họ buộc phải trở thành người nghèo. Ai bảo họ vẫn là người giàu, hãy thử đổi cuộc đời với họ.

Nay sau khi đã giết chết con bò vàng của họ, ta lên mặt dạy họ là phải canh tác, nuôi dưỡng cho tốt mấy con rận bò còn sót lại để vắt sữa mà ăn. Mấy anh công tử thành thị cả đời ăn trắng mặt trơn, nay lên miền núi khuyến nông khuyến lâm, dạy cho những người từ bao ngàn đời sống chết với rừng phải làm gì để sống được nhờ rừng, thật là khôi hài hết chỗ nói. Thế còn người thường sống ở trên đời, thấy ai đói, rét thì thương, muốn chia cơm sẻ áo, thấy ngã thì đỡ, đó là tình người, và cũng là bình thường; nay bảo họ phải có tư duy hệ thống, phải giải quyết tận gốc vấn đề, có khác nào nói nếu thấy đứa trẻ rơi xuống giếng thì không được nhảy xuống vớt lên, mà phải xét xem nguyên nhân tại sao trẻ con lại có thể ngã xuống giếng, và nên để đứa đấy chết cho đứa khác chừa thói tăng động, thì đó là bất nhân. Ngược lại, yêu cầu thể chế, đại diện là thủ tướng, bộ trưởng phải đích thân trích lương tháng phát mỳ tôm cho nạn nhân, xắn móng lợn lên đắp đê cùng dân, để thể hiện lòng từ thiện thì cũng là bất trí.
Ở thị trấn Phó Bảng, Hà Giang. Ảnh từ trang này 
Nếu thực sự muốn thay đổi tận gốc vấn đề, thì hãy cho họ một cơ hội thực sự bình đẳng để về miền xuôi, về thành phố, chia sẻ cơ hội với chúng ta ở vùng đồng bằng. Những ai ở lại không đi, tức là họ có cách sống riêng, có tài sản riêng, và có thể coi họ không phải nghèo, không cần phải từ thiện. Vùng miền núi thì phải coi như khu bảo tồn hết. Những dân tộc thiểu số miền núi khi đó được coi như những chủng tộc riêng, có phương thức sống riêng, tự trị. Cắt mọi đường giao thông cơ giới, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác rừng trong hàng trăm năm để rừng tự phục hồi. Ta dễ dàng hình dung yêu cầu này là bất khả, với lòng tham của chúng ta, với con quái vật hiện đại hóa đã lớn quá đà kiểm soát và cần phải cung phụng hàng ngày.

Vậy nên hãy cứ để mỗi em nhỏ, mỗi bà nội trợ quyên góp chút sách vở, mì tôm, áo ấm cho miền núi, vì ít nhất là họ còn nhận ra là có người khổ, và còn có lòng trắc ẩn, như thế họ mới là con người.

Hãy cứ để những người miền núi nhận những thứ quà từ thiện đó, mặc dù tất nhiên chúng chẳng thể làm thay đổi vấn đề, nhưng chúng là những tình cảm, những lời an ủi cho những số phận bi đát.
10. 06. 16

Phó Đức Tùng

(Soi)
19:47 Unknown
Một thung lũng ở Hà Giang. Ảnh từ trang này dẫn từ Zing.
Nước Việt nam 4/5 là miền đồi núi, 1/5 là đồng bằng. Vùng miền núi chủ yếu thuộc địa phận cư trú của các dân tộc thiểu số, vùng đồng bằng chủ yếu là người Kinh. Nhìn chung, có thể nói vùng miền núi nghèo hơn hẳn đồng bằng, và trong vùng miền núi thì người các dân tộc thiểu số lại nghèo nhất. Dòng từ thiện do đó chủ yếu đi từ miền xuôi lên miền ngược, từ người Kinh đến người dân tộc. Nay trong tranh luận về từ thiện nổi lên mấy câu hỏi: Người dân tộc có thật nghèo không? Họ nghèo là do làm sao, có phải do họ lười và ngu không? Và ta nên cho họ mì tôm, áo ấm hay là dạy cho họ cách kiếm sống bền vững?

Xét lại, hơn 100 năm trước đây, đa số vùng núi là khu tự trị của các dân tộc thiểu số, có thông thương nhất định với miền xuôi, nhưng về cơ bản là tự cung tự cấp. Người Pháp là người đầu tiên đã làm những tuyến đường nhựa, đường tàu kết nối từ miền xuôi lên miền ngược, chủ yếu để khai thác tài nguyên, nhưng về cơ bản, người Pháp cũng chưa lấy được gì nhiều. Tới những năm 50, đa số diện tích vùng đồi núi vẫn là rừng, mà chủ yếu là rừng giàu, rừng nguyên sinh. Mặc dù nhiều dân tộc miền núi có cách sống du canh du cư, nhưng sau nhiều ngàn năm cư trú, luân chuyển, về cơ bản tài nguyên rừng không bị cạn kiệt. Rừng là vàng, và như vậy các dân tộc này là giàu, ít nhất theo tiêu chí riêng của họ.
Ở Đồng Văn. Ảnh từ trang này dẫn từ Zing.
50 năm trở lại đây, chúng ta, người Kinh và chính quyền, đã mở nhiều đường lên miền núi, về cơ bản đã phá tan tất cả tài nguyên rừng, biến chúng thành những vùng đất trống đồi trọc, với các thảm hoạ sói mòn, sạt lở, lũ ống lũ quét. Sau đó ta dồn họ vào định cư ở những bản làng trơ trụi, xung quanh chẳng còn tài nguyên gì. Nếu còn chút đất tốt thì ta lấy làm đồn điền, còn chút rừng thì ta khoanh để bảo tồn, làm du lịch, cũng cấm không được khai thác. Như vậy, họ buộc phải trở thành người nghèo. Ai bảo họ vẫn là người giàu, hãy thử đổi cuộc đời với họ.

Nay sau khi đã giết chết con bò vàng của họ, ta lên mặt dạy họ là phải canh tác, nuôi dưỡng cho tốt mấy con rận bò còn sót lại để vắt sữa mà ăn. Mấy anh công tử thành thị cả đời ăn trắng mặt trơn, nay lên miền núi khuyến nông khuyến lâm, dạy cho những người từ bao ngàn đời sống chết với rừng phải làm gì để sống được nhờ rừng, thật là khôi hài hết chỗ nói. Thế còn người thường sống ở trên đời, thấy ai đói, rét thì thương, muốn chia cơm sẻ áo, thấy ngã thì đỡ, đó là tình người, và cũng là bình thường; nay bảo họ phải có tư duy hệ thống, phải giải quyết tận gốc vấn đề, có khác nào nói nếu thấy đứa trẻ rơi xuống giếng thì không được nhảy xuống vớt lên, mà phải xét xem nguyên nhân tại sao trẻ con lại có thể ngã xuống giếng, và nên để đứa đấy chết cho đứa khác chừa thói tăng động, thì đó là bất nhân. Ngược lại, yêu cầu thể chế, đại diện là thủ tướng, bộ trưởng phải đích thân trích lương tháng phát mỳ tôm cho nạn nhân, xắn móng lợn lên đắp đê cùng dân, để thể hiện lòng từ thiện thì cũng là bất trí.
Ở thị trấn Phó Bảng, Hà Giang. Ảnh từ trang này 
Nếu thực sự muốn thay đổi tận gốc vấn đề, thì hãy cho họ một cơ hội thực sự bình đẳng để về miền xuôi, về thành phố, chia sẻ cơ hội với chúng ta ở vùng đồng bằng. Những ai ở lại không đi, tức là họ có cách sống riêng, có tài sản riêng, và có thể coi họ không phải nghèo, không cần phải từ thiện. Vùng miền núi thì phải coi như khu bảo tồn hết. Những dân tộc thiểu số miền núi khi đó được coi như những chủng tộc riêng, có phương thức sống riêng, tự trị. Cắt mọi đường giao thông cơ giới, nghiêm cấm mọi hoạt động khai thác rừng trong hàng trăm năm để rừng tự phục hồi. Ta dễ dàng hình dung yêu cầu này là bất khả, với lòng tham của chúng ta, với con quái vật hiện đại hóa đã lớn quá đà kiểm soát và cần phải cung phụng hàng ngày.

Vậy nên hãy cứ để mỗi em nhỏ, mỗi bà nội trợ quyên góp chút sách vở, mì tôm, áo ấm cho miền núi, vì ít nhất là họ còn nhận ra là có người khổ, và còn có lòng trắc ẩn, như thế họ mới là con người.

Hãy cứ để những người miền núi nhận những thứ quà từ thiện đó, mặc dù tất nhiên chúng chẳng thể làm thay đổi vấn đề, nhưng chúng là những tình cảm, những lời an ủi cho những số phận bi đát.
10. 06. 16

Phó Đức Tùng

(Soi)
tin mới du lịch cô tô tin mới thiết bị camera cửa lưới chống muỗi cửa lưới chống muỗi tự cuốn thi công nội thất thiết kế nội thất loa đám cưới nhà nghỉ cô tô âm thanh hội trường báo online phiếu giảm giá gai goi ha noi gai goi sai gon gai goi cao cap gai goi cao cap ha noi gái gọi trần duy hưng gái gọi mỹ đình gái gọi kim liên chùa bộc danh sách gái gọi gái gọi cao cấp hà nội gái gọi sài gòn gái gọi hà nội gái gọi hà nội