Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Việt Xấu Xí. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Việt Xấu Xí. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2016

Tiếp theo vụ án bia ôm Đường Sơn Quán, chúng tôi tiếp tục gửi đến bạn đọc câu chuyện nội tình bên trong ly kỳ và hấp dẫn với những nhà báo đen tâm đức không sáng khiến ngòi bút trở thành… mũi dao nhọn.

Năm 1990, TAND TPHCM xét xử sơ thẩm vụ án bia ôm Đường Sơn Quán với mức án dành cho các bị cáo: Lê Thị Thanh Xuân, 37 tuổi là chủ quán 4 năm tù; Nguyễn Trung Nam 45 tuổi, Phó Chỉ tịch huyện Thủ Đức và Phan Thanh (Ba Tung) 45 tuổi, Trưởng phòng CSHS CATPHCM mỗi người 1 năm tù treo; Nguyễn Cao Trí 37 tuổi là đồng phạm với Thanh Xuân mức án 18 tháng tù với các tội danh: Chứa mãi dâm, truyền bá văn hóa đồi trụy; Lợi dụng chức vụ quyền hạn; sử dụng vũ khí trái phép. Vụ án kháng cáo lên tòa phúc thẩm.

“Nhà báo” Huy Đức trong cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm
“Nhà báo” Huy Đức trong cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm
“Đâm thuê, chém mướn” bằng ngòi bút

Bi kịch xảy ra cho gia đình Ba Tung trong thời gian tạm giam, đó là việc cô con gái 16-17 tuổi học tại trường THPT Lê Quý Đôn không chịu nỗi cảnh nhục nhã khi nghe bạn bè đàm tiếu chuyện về cha mình (thần tượng của em) nào là quan hệ bất chính với gái mại dâm, có đăng hình trên báo, là loại công an suy đồi biến chất, trụy lạc… Con gái của Ba Tung đã uống thuốc độc tự tử. Bà vợ của ông cũng xấu hổ dở điên dở khùng được cơ quan cho đi Hà Nội học chính trị nhằm tránh tiếng dư luận đang xôn xao dậy sóng khắp nơi về vụ án mãi dâm đầu tiên có qui mô lớn, liên quan nhiều cán bộ, công chức gây chấn động thành phố và cả nước. Bức xúc đến nỗi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu trong hội nghị cán bộ toàn quốc, phê bình Ban Thường vụ Thành ủy TPHCM đã chỉ đạo tòa án xử quá nhẹ tay.

Mức án 1 năm tù treo với Ba Tung dù rất nhẹ, không lớn nhưng mức án lương tâm về cái chết của con gái nặng hơn ngàn cân treo trên đầu. Một sĩ quan hình sự đầy triển vọng với quân hàm trung tá, một biệt động thành nổi tiếng giữa Sài Gòn thời chống Mỹ đã nhận kết cục bi thảm như thế là quá nhiều. Đằng sau sự hả hê và thăng hoa của các nhà báo đen như Huy Đức và Năm Cam cùng đồng bọn yến tiệc ăn mừng say sưa là một nỗi đau và rất bất nhẫn. Những kẻ từng ăn bám trên thành tích của công an hình sự, ăn bám theo trùm giang hồ Năm Cam và phe cánh trong nội bộ đấu đá nhau tranh giành chức quyền nay lại quay mặt cắn vào những người thân, trở mặt, bẽ bàng để dựa theo một ô dù khác triển vọng hơn. Họ đã bán lương tâm với giá rất rẻ, cực kỳ rẻ. Những người đến dự phiên tòa ngày đó cốt chỉ xem mặt Thanh Xuân xinh đẹp ra sao thôi, không buồn cũng không vui, không giận dữ hay khinh miệt vì quá xót xa, cay đắng về cái chết nông nổi của con gái Ba Tung.

Còn nhớ vào năm 1969, khi nghe tin Bác Hồ kính yêu qua đời, trên một tờ báo lớn của chính quyền Sài Gòn có đăng hai trang một bài viết về thân thế, sự nghiệp của Bác. Người viết là một giáo sư họ Lý nổi tiếng đang sống sờ sờ tại thành phố, nhưng chỉ một từ dùng ở câu cuối bài viết “nhưng rất tiếc, ông Hồ là người cộng sản”. Ai thạo chữ nghĩa đều biết rất rõ, chỉ một từ “rất” chỉ mức độ kia, đã phủ nhận toàn bộ công lao sự nghiệp của Hồ Chủ Tịch. Nếu không sử dụng những từ ngữ chỉ mức độ thì còn có nghĩa tương đối “nhưng tiếc hoặc nhưng…”. Ngay sau khi báo phát hành, Ba Tung đã chỉ huy đội biệt động thành đốt ngay tòa soạn báo Tia Sáng (ngay trụ sở báo CAND bây giờ – khu vực Hồ Con Rùa). Một người từng vào sinh ra tử như Ba Tung liệu có phải là một con người thoái hóa, biến chất hay không có tinh thần cách mạng? Bị cuốn vào một cuộc chơi của kẻ khác, một cuộc chơi với đầy dã tâm, toan tính của kẻ xấu do mất cảnh giác và thăng hoa, chủ quan nên Ba Tung và nhiều đồng đội của ông bị sập bẫy. Trong phiên tòa xét xử phúc thẩm vào năm 1990, quan tòa “Bao Thanh Thiên” Huỳnh Việt Thắng đã bất chấp mọi sự phật ý của cấp trên, ông đã tuyên án Ba Tung phạt cảnh cáo khiến cho những người bảo thủ bất bình. Nhưng theo ông, tội “thiếu trách nhiệm” của Ba Tung trong vụ án này không cấu thành và hơn nữa, cho dù là án treo hay án cảnh cáo đối với một đồng chí sa cơ lỡ vận như Ba Tung là một án chung thân rồi. Công lý và tình người đã được mọi người soi xét, sáng tỏ một cách minh bạch. Câu chuyện bia ôm Đường Sơn Quán tưởng đã đến hồi kết thúc với dự luận, kết thúc với hào quang của những nhà như báo Huy Đức… đang lung linh trên đỉnh ngôi sao của làng báo. Từ vỉa hè, quán cà phê đến công sở đâu đâu bàn dân thiên hạ cũng bàn về vụ triệt phá bia ôm Đường Sơn Quán và những nhà báo tài ba dũng cảm điều tra, viết bài đăng lên báo. Không một ai biết rằng đây là một cuộc chơi tranh giành quyền lực và có bàn tay của trùm Năm Cam nhúng vào. Không một ai biết rằng, Huy Đức cũng chỉ là công cụ, là con cờ trong tay kẻ khác chơi. Một cuộc chơi bẩn thỉu và duy nhất, đó là xóa sạch tệ nạn xã hội gây ung nhọt cho thành phố, làm hư hỏng bao nhiêu cán bộ, công chức tài năng, tuổi trẻ.

Tưởng đã “mồ yên mả đẹp” cho số phận một người hùng bại trận như Ba Tung, khi mất tất cả từ sự nghiệp, công danh, vợ con, danh dự… Ông lui về vùng đất rừng Bình Châu lập trang trại trồng cây, nuôi bò, nuôi gà ở ẩn tránh xa chốn thị phi. Đùng một cái, nhà báo lão thành Lê Văn Ba (cựu phóng viên Báo Đại Đoàn Kết) nhặt được lá thư tuyệt mệnh của con gái Ba Tung gửi cho cha trước lúc dùng độc dược quyên sinh. Trong thư viết lại tâm trạng của cô học sinh cấp III khi “thần tượng, mặt trời của đời con sụp đỗ” và không thể chịu đựng sỉ nhục và áp lực bạn bè nên tìm cái chết… Một nhà báo lão thành như ông Lê Văn Ba – hơn ai hết ông không nên làm cái việc “giết người lần hai” và không nên “đánh kẻ dưới ngựa” vì việc hèn hạ này chỉ dành cho những kẻ tiểu nhân bỉ ổi…

Vậy mà ông này cầm bút viết tất cả, đào bới lên tất cả để nguyền rủa Ba Tung và để “dạy đời” về các bậc phụ huynh là “thần tượng, mặt trời” của con cái. Báo đăng, ông này photocopy hàng trăm bản mang trong người gặp ai cũng đưa ra khoe như thể là một chiến tích lừng lẫy và oai hùng mà ông ta vừa làm. Thật quá bỉ ổi và vô lương tâm, bất nhẫn và rất nặng mùi tội ác. Ông ta và những kẻ cùng loại vui cười, tự sướng, tự tâng bốc mình, tự huyễn hoặc mình trên đau khổ của người khác, một đau khổ tột cùng. Lương tâm ông ta có khác gì loài kên kên chỉ nấp chực chờ trên cây, đợi có xác chết là lao xuống rúc rỉa, đánh chén no say?! Luận về đạo đức, luận về sự trong sáng của lương tâm ông ta và những nhà báo đen “ăn theo” trong vụ Đường Sơn Quán năm xưa và Năm Cam sau này có khác gì nhau?. Nhớ lại chuyện xưa, để phân biệt anh hùng và gian hùng giữa Tào Tháo và Lưu Bị cho đến vạn đời sau cũng thật khó mà luận đúng sai. Không riêng các nhà báo đen liên quan trong vụ việc như thế này, mà người dân thành phố còn nhớ chuyện ông luật gia Hoàng Trung Tiếu khi ra tòa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Phan Công Trinh (Sở Tư Pháp trước đây), ông này từng hót trước tòa rằng: “… tôi với anh từng là bạn chiến đấu trong rừng, từng chia nhau sinh tử, ngọt bùi…”, đành rằng ông này nói không sai, nhưng mang tình cảm và đau khổ, uất hận riêng tư ra trước hoàn cảnh một người đang là tội phạm, một người đang dõng dạc lên tiếng “dạy đời” kẻ kia thì ông ta mới chính là kẻ thù, là tội ác lương tâm nguyền rủa. Ông ta đang dùng lời lẽ đường mật để thực hiện tử hình sớm một con người mà ông ta nhân danh tình bạn. Khi vụ án Năm Cam và đồng bọn bị triệt phá, chân tướng những nhà báo đen như Huy Đức được lột tả rất chân thực trong kết luật điều tra: “Hoàng Linh khai nhận: Sau buổi làm việc với Liên Khui Thìn tại Công ty Epco cho tới khi Thìn bị bắt (đầu năm 1997), Hoàng Linh đã được Liên Khui Thìn cho 1 điện thoại di động Ericsson và nhiều lần cho tiền, do thời gian đã lâu nên Hoàng Linh không nhớ được cụ thể bao nhiêu lần nhưng tổng số tiền Hoàng Linh nhận khoảng 105 triệu đồng. Ngoài số tiền trên, từ năm 1995 đến 1997, Hoàng Linh còn nhận 4 lần tiền, mỗi lần 15 triệu đồng, tổng cộng là 60 triệu đồng do Liên Khui Thìn gửi cho ông Huỳnh Sơn Phước (Phó tổng biên tập báo Tuổi trẻ), ông Hoàng Quý (nguyên chánh văn phòng báo Tuổi trẻ), ông Huy Đức (nguyên phóng viên báo Tuổi trẻ), mỗi người 20 triệu đồng. Tuy nhiên những người trên đều không thừa nhận lời khai của Hoàng Linh.”

Ranh giới giữa tâm sáng và đức tối rất mỏng manh, nghiệt ngã vô cùng. Làm một nhà báo, điều này càng trở nên nghiêm khắc và cẩn trọng tuyệt đối. Một kẻ cướp hung hãn cầm dao đâm chết đúng một người, còn “nhà báo đen” cầm cây bút có thể giết hàng loạt người từ bản thân họ đến vợ con, gia đình, dòng họ, danh dự… Nhân danh những điều tốt đẹp, chân thiện mà lại giết người dã man dù vô tình hay hữu ý thì đó cũng là một thứ tội ác trời không dung, đất không tha.

(truongtansang.net)
18:33 Unknown
Tiếp theo vụ án bia ôm Đường Sơn Quán, chúng tôi tiếp tục gửi đến bạn đọc câu chuyện nội tình bên trong ly kỳ và hấp dẫn với những nhà báo đen tâm đức không sáng khiến ngòi bút trở thành… mũi dao nhọn.

Năm 1990, TAND TPHCM xét xử sơ thẩm vụ án bia ôm Đường Sơn Quán với mức án dành cho các bị cáo: Lê Thị Thanh Xuân, 37 tuổi là chủ quán 4 năm tù; Nguyễn Trung Nam 45 tuổi, Phó Chỉ tịch huyện Thủ Đức và Phan Thanh (Ba Tung) 45 tuổi, Trưởng phòng CSHS CATPHCM mỗi người 1 năm tù treo; Nguyễn Cao Trí 37 tuổi là đồng phạm với Thanh Xuân mức án 18 tháng tù với các tội danh: Chứa mãi dâm, truyền bá văn hóa đồi trụy; Lợi dụng chức vụ quyền hạn; sử dụng vũ khí trái phép. Vụ án kháng cáo lên tòa phúc thẩm.

“Nhà báo” Huy Đức trong cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm
“Nhà báo” Huy Đức trong cuộc chơi của tiền và quyền lực ngầm
“Đâm thuê, chém mướn” bằng ngòi bút

Bi kịch xảy ra cho gia đình Ba Tung trong thời gian tạm giam, đó là việc cô con gái 16-17 tuổi học tại trường THPT Lê Quý Đôn không chịu nỗi cảnh nhục nhã khi nghe bạn bè đàm tiếu chuyện về cha mình (thần tượng của em) nào là quan hệ bất chính với gái mại dâm, có đăng hình trên báo, là loại công an suy đồi biến chất, trụy lạc… Con gái của Ba Tung đã uống thuốc độc tự tử. Bà vợ của ông cũng xấu hổ dở điên dở khùng được cơ quan cho đi Hà Nội học chính trị nhằm tránh tiếng dư luận đang xôn xao dậy sóng khắp nơi về vụ án mãi dâm đầu tiên có qui mô lớn, liên quan nhiều cán bộ, công chức gây chấn động thành phố và cả nước. Bức xúc đến nỗi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu trong hội nghị cán bộ toàn quốc, phê bình Ban Thường vụ Thành ủy TPHCM đã chỉ đạo tòa án xử quá nhẹ tay.

Mức án 1 năm tù treo với Ba Tung dù rất nhẹ, không lớn nhưng mức án lương tâm về cái chết của con gái nặng hơn ngàn cân treo trên đầu. Một sĩ quan hình sự đầy triển vọng với quân hàm trung tá, một biệt động thành nổi tiếng giữa Sài Gòn thời chống Mỹ đã nhận kết cục bi thảm như thế là quá nhiều. Đằng sau sự hả hê và thăng hoa của các nhà báo đen như Huy Đức và Năm Cam cùng đồng bọn yến tiệc ăn mừng say sưa là một nỗi đau và rất bất nhẫn. Những kẻ từng ăn bám trên thành tích của công an hình sự, ăn bám theo trùm giang hồ Năm Cam và phe cánh trong nội bộ đấu đá nhau tranh giành chức quyền nay lại quay mặt cắn vào những người thân, trở mặt, bẽ bàng để dựa theo một ô dù khác triển vọng hơn. Họ đã bán lương tâm với giá rất rẻ, cực kỳ rẻ. Những người đến dự phiên tòa ngày đó cốt chỉ xem mặt Thanh Xuân xinh đẹp ra sao thôi, không buồn cũng không vui, không giận dữ hay khinh miệt vì quá xót xa, cay đắng về cái chết nông nổi của con gái Ba Tung.

Còn nhớ vào năm 1969, khi nghe tin Bác Hồ kính yêu qua đời, trên một tờ báo lớn của chính quyền Sài Gòn có đăng hai trang một bài viết về thân thế, sự nghiệp của Bác. Người viết là một giáo sư họ Lý nổi tiếng đang sống sờ sờ tại thành phố, nhưng chỉ một từ dùng ở câu cuối bài viết “nhưng rất tiếc, ông Hồ là người cộng sản”. Ai thạo chữ nghĩa đều biết rất rõ, chỉ một từ “rất” chỉ mức độ kia, đã phủ nhận toàn bộ công lao sự nghiệp của Hồ Chủ Tịch. Nếu không sử dụng những từ ngữ chỉ mức độ thì còn có nghĩa tương đối “nhưng tiếc hoặc nhưng…”. Ngay sau khi báo phát hành, Ba Tung đã chỉ huy đội biệt động thành đốt ngay tòa soạn báo Tia Sáng (ngay trụ sở báo CAND bây giờ – khu vực Hồ Con Rùa). Một người từng vào sinh ra tử như Ba Tung liệu có phải là một con người thoái hóa, biến chất hay không có tinh thần cách mạng? Bị cuốn vào một cuộc chơi của kẻ khác, một cuộc chơi với đầy dã tâm, toan tính của kẻ xấu do mất cảnh giác và thăng hoa, chủ quan nên Ba Tung và nhiều đồng đội của ông bị sập bẫy. Trong phiên tòa xét xử phúc thẩm vào năm 1990, quan tòa “Bao Thanh Thiên” Huỳnh Việt Thắng đã bất chấp mọi sự phật ý của cấp trên, ông đã tuyên án Ba Tung phạt cảnh cáo khiến cho những người bảo thủ bất bình. Nhưng theo ông, tội “thiếu trách nhiệm” của Ba Tung trong vụ án này không cấu thành và hơn nữa, cho dù là án treo hay án cảnh cáo đối với một đồng chí sa cơ lỡ vận như Ba Tung là một án chung thân rồi. Công lý và tình người đã được mọi người soi xét, sáng tỏ một cách minh bạch. Câu chuyện bia ôm Đường Sơn Quán tưởng đã đến hồi kết thúc với dự luận, kết thúc với hào quang của những nhà như báo Huy Đức… đang lung linh trên đỉnh ngôi sao của làng báo. Từ vỉa hè, quán cà phê đến công sở đâu đâu bàn dân thiên hạ cũng bàn về vụ triệt phá bia ôm Đường Sơn Quán và những nhà báo tài ba dũng cảm điều tra, viết bài đăng lên báo. Không một ai biết rằng đây là một cuộc chơi tranh giành quyền lực và có bàn tay của trùm Năm Cam nhúng vào. Không một ai biết rằng, Huy Đức cũng chỉ là công cụ, là con cờ trong tay kẻ khác chơi. Một cuộc chơi bẩn thỉu và duy nhất, đó là xóa sạch tệ nạn xã hội gây ung nhọt cho thành phố, làm hư hỏng bao nhiêu cán bộ, công chức tài năng, tuổi trẻ.

Tưởng đã “mồ yên mả đẹp” cho số phận một người hùng bại trận như Ba Tung, khi mất tất cả từ sự nghiệp, công danh, vợ con, danh dự… Ông lui về vùng đất rừng Bình Châu lập trang trại trồng cây, nuôi bò, nuôi gà ở ẩn tránh xa chốn thị phi. Đùng một cái, nhà báo lão thành Lê Văn Ba (cựu phóng viên Báo Đại Đoàn Kết) nhặt được lá thư tuyệt mệnh của con gái Ba Tung gửi cho cha trước lúc dùng độc dược quyên sinh. Trong thư viết lại tâm trạng của cô học sinh cấp III khi “thần tượng, mặt trời của đời con sụp đỗ” và không thể chịu đựng sỉ nhục và áp lực bạn bè nên tìm cái chết… Một nhà báo lão thành như ông Lê Văn Ba – hơn ai hết ông không nên làm cái việc “giết người lần hai” và không nên “đánh kẻ dưới ngựa” vì việc hèn hạ này chỉ dành cho những kẻ tiểu nhân bỉ ổi…

Vậy mà ông này cầm bút viết tất cả, đào bới lên tất cả để nguyền rủa Ba Tung và để “dạy đời” về các bậc phụ huynh là “thần tượng, mặt trời” của con cái. Báo đăng, ông này photocopy hàng trăm bản mang trong người gặp ai cũng đưa ra khoe như thể là một chiến tích lừng lẫy và oai hùng mà ông ta vừa làm. Thật quá bỉ ổi và vô lương tâm, bất nhẫn và rất nặng mùi tội ác. Ông ta và những kẻ cùng loại vui cười, tự sướng, tự tâng bốc mình, tự huyễn hoặc mình trên đau khổ của người khác, một đau khổ tột cùng. Lương tâm ông ta có khác gì loài kên kên chỉ nấp chực chờ trên cây, đợi có xác chết là lao xuống rúc rỉa, đánh chén no say?! Luận về đạo đức, luận về sự trong sáng của lương tâm ông ta và những nhà báo đen “ăn theo” trong vụ Đường Sơn Quán năm xưa và Năm Cam sau này có khác gì nhau?. Nhớ lại chuyện xưa, để phân biệt anh hùng và gian hùng giữa Tào Tháo và Lưu Bị cho đến vạn đời sau cũng thật khó mà luận đúng sai. Không riêng các nhà báo đen liên quan trong vụ việc như thế này, mà người dân thành phố còn nhớ chuyện ông luật gia Hoàng Trung Tiếu khi ra tòa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Phan Công Trinh (Sở Tư Pháp trước đây), ông này từng hót trước tòa rằng: “… tôi với anh từng là bạn chiến đấu trong rừng, từng chia nhau sinh tử, ngọt bùi…”, đành rằng ông này nói không sai, nhưng mang tình cảm và đau khổ, uất hận riêng tư ra trước hoàn cảnh một người đang là tội phạm, một người đang dõng dạc lên tiếng “dạy đời” kẻ kia thì ông ta mới chính là kẻ thù, là tội ác lương tâm nguyền rủa. Ông ta đang dùng lời lẽ đường mật để thực hiện tử hình sớm một con người mà ông ta nhân danh tình bạn. Khi vụ án Năm Cam và đồng bọn bị triệt phá, chân tướng những nhà báo đen như Huy Đức được lột tả rất chân thực trong kết luật điều tra: “Hoàng Linh khai nhận: Sau buổi làm việc với Liên Khui Thìn tại Công ty Epco cho tới khi Thìn bị bắt (đầu năm 1997), Hoàng Linh đã được Liên Khui Thìn cho 1 điện thoại di động Ericsson và nhiều lần cho tiền, do thời gian đã lâu nên Hoàng Linh không nhớ được cụ thể bao nhiêu lần nhưng tổng số tiền Hoàng Linh nhận khoảng 105 triệu đồng. Ngoài số tiền trên, từ năm 1995 đến 1997, Hoàng Linh còn nhận 4 lần tiền, mỗi lần 15 triệu đồng, tổng cộng là 60 triệu đồng do Liên Khui Thìn gửi cho ông Huỳnh Sơn Phước (Phó tổng biên tập báo Tuổi trẻ), ông Hoàng Quý (nguyên chánh văn phòng báo Tuổi trẻ), ông Huy Đức (nguyên phóng viên báo Tuổi trẻ), mỗi người 20 triệu đồng. Tuy nhiên những người trên đều không thừa nhận lời khai của Hoàng Linh.”

Ranh giới giữa tâm sáng và đức tối rất mỏng manh, nghiệt ngã vô cùng. Làm một nhà báo, điều này càng trở nên nghiêm khắc và cẩn trọng tuyệt đối. Một kẻ cướp hung hãn cầm dao đâm chết đúng một người, còn “nhà báo đen” cầm cây bút có thể giết hàng loạt người từ bản thân họ đến vợ con, gia đình, dòng họ, danh dự… Nhân danh những điều tốt đẹp, chân thiện mà lại giết người dã man dù vô tình hay hữu ý thì đó cũng là một thứ tội ác trời không dung, đất không tha.

(truongtansang.net)

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

HÀ NỘI (NV) - Áp lực của dư luận đã khiến ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN yêu cầu phải điều tra về những vấn đề có liên quan đến ông Trịnh Xuân Thanh, phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang.

Chiếc Lexus 570 và ông Trịnh Xuân Thanh. (Hình: Dân Trí)
Cuối tháng trước, một vài tờ báo ở Việt Nam nêu thắc mắc về việc tại sao chính quyền tỉnh Hậu Giang lại có một chiếc công xa loại Lexus LX 570. Tại Việt Nam, giá một chiếc LX 570 khoảng 6 tỷ đồng trong khi theo quy định, viên chức lãnh đạo cấp tỉnh không được dùng công xa có giá trị trên một tỷ đồng.

Sau đó thì chính quyền tỉnh Hậu Giang phân bua, chiếc LX 570 không phải công xa. Nó là xe riêng của ông Trịnh Xuân Thanh, phó chủ tịch tỉnh. Sở dĩ chiếc LX 570 này mang biển xanh (màu của loại biển số chỉ cấp cho công xa) là vì công an tỉnh Hậu Giang muốn “hỗ trợ” ông Thanh đi lại cho dễ dàng.

Tuy ông Thanh đã tháo biển xanh trả lại cho công an tỉnh Hậu Giang. Bí thư tỉnh Hậu Giang đã khẳng định, việc ông Thanh dùng xe riêng, không dùng công xa là điều đáng hoan nghênh, còn xe riêng gắn biển xanh để đi lại cho thuận tiện là điều bình thường, đừng nên làm ầm ĩ nhưng câu chuyện còn... ầm ĩ hơn trước.

Báo chí Việt Nam bắt đầu lật lại hồ sơ về ông Thanh, một người sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, tốt nghiệp đại học Kiến Trúc năm 1990, sau đó sang Đông Âu “làm ăn.” Năm 1995 ông Thanh quay về Việt Nam và năm 1996 được bổ nhiệm làm lãnh đạo một công ty của Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.

Đến năm 2000 ông Thanh chuyển qua làm phó giám đốc Chi Nhánh Hà Nội của Tổng Công Ty Sông Hồng, sau đó được đề bạt làm phó tổng giám đốc rồi làm tổng giám đốc của Tổng Công Ty Sông Hồng cho đến năm 2007, ông Thanh chuyển qua Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam (PVC).

Năm 2010, Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam được vinh danh là một trong mười “Sao vàng Đất Việt.”

Giữa năm 2013, người ta phát giác PVC thua lỗ 3,200 tỷ đồng! Ông Thanh lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của PVC đột nhiên được rút khỏi PVC để về làm trưởng văn phòng đại diện của Bộ Công Thương ở miền Trung. Vài tháng sau, vào đầu năm 2014, thủ tướng Việt Nam chỉ đạo điều tra - xử lý các sai phạm khiến PVC thua lỗ nghiêm trọng, nhiều thuộc cấp của ông Thanh bị tống giam, còn ông Thanh thì quay trở về Hà Nội làm... chánh Văn Phòng Ban Cán Sự Đảng của Bộ Công Thương.

Năm 2015, ông Thanh được “luân chuyển” về tỉnh Hậu Giang. Cần lưu ý rằng “luân chuyển” là bước khởi đầu của tiến trình chuẩn bị cho việc bổ nhiệm các viên chức đã được lựa chọn để đảm nhận những chức vụ cao hơn và quan trọng hơn. Trong trường hợp của ông Thanh, “luân chuyển” từ Bộ Công Thương về tỉnh Hậu Giang là bước khởi đầu để bước hàng ngũ các viên chức lãnh đạo chính quyền Việt Nam.

Giữa năm 2015, Hội đồng nhân dân tỉnh Hậu Giang họp phiên bất thường, bầu ông Thanh làm phó chủ tịch tỉnh. Mới đây, trong kỳ bầu cử toàn quốc hồi tháng 5 vừa qua, ông Thanh được bầu vào quốc hội.

Cả dân chúng lẫn báo giới cùng thắc mắc, ông Thanh lấy tiền từ đâu để sắm một chiếc xe hơi mà giá trị tới sáu tỷ đồng (?), phải chăng đó là tiền ông tham nhũng khi làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của PVC (?). Hồi cuối tuần vừa qua, ông Thanh đăng đàn giải thích, chiếc xe trị giá sáu tỷ là của ông Nguyễn Đặng Toàn, ngụ tại Hà Nội. Ông Toàn đã bỏ 5.7 tỷ đồng mua chiếc Lexus 570 để cho ông Thanh mượn. Thậm chí ông Toàn còn bỏ gia đình, từ Hà Nội vào Hậu Giang, nộp đơn xin làm lái xe cho ông Thanh để “biết đó, biết đây,” dù lương tài xế chỉ có 2.8 triệu đồng/tháng!

Báo chí Việt Nam đã thử điều tra và mới tìm ra ông Toàn - bạn kiêm tài xế của ông Thanh còn là chủ nhân 4,000 cổ phần của một công ty thuộc PVC.

Cách nay vài thập niên, tổ chức thanh niên của chính quyền CSVN mở những cuộc vận động để có nhiều “đôi bạn cùng tiến” (giúp đỡ nhau tiến bộ). Có vẻ là ông Thanh và ông Toàn muốn sánh vai nhau để làm một “đôi bạn cùng tiến” nhưng cả dân chúng lẫn báo giới Việt Nam chỉ cười khẩy chứ không tin.

Nhiều người, trong đó có cả những viên chức đã nghỉ hưu đang đòi phải xem lại “công tác nhân sự.” Tại sao những người có nhiều dấu hiệu sai phạm như ông Thanh không những có thể vô sự mà còn có cơ hội luồn rất sâu, leo rất cao (?).

Trong trường hợp ông Thanh một số người đang đòi xem xét trách nhiệm của ông Tô Huy Rứa và ông Phạm Minh Chính. Ông Rứa là cựu Trưởng Ban Tổ Chức của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN còn ông Chính là người thay ông Rứa.

(Người Việt)
18:53 Unknown
HÀ NỘI (NV) - Áp lực của dư luận đã khiến ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN yêu cầu phải điều tra về những vấn đề có liên quan đến ông Trịnh Xuân Thanh, phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang.

Chiếc Lexus 570 và ông Trịnh Xuân Thanh. (Hình: Dân Trí)
Cuối tháng trước, một vài tờ báo ở Việt Nam nêu thắc mắc về việc tại sao chính quyền tỉnh Hậu Giang lại có một chiếc công xa loại Lexus LX 570. Tại Việt Nam, giá một chiếc LX 570 khoảng 6 tỷ đồng trong khi theo quy định, viên chức lãnh đạo cấp tỉnh không được dùng công xa có giá trị trên một tỷ đồng.

Sau đó thì chính quyền tỉnh Hậu Giang phân bua, chiếc LX 570 không phải công xa. Nó là xe riêng của ông Trịnh Xuân Thanh, phó chủ tịch tỉnh. Sở dĩ chiếc LX 570 này mang biển xanh (màu của loại biển số chỉ cấp cho công xa) là vì công an tỉnh Hậu Giang muốn “hỗ trợ” ông Thanh đi lại cho dễ dàng.

Tuy ông Thanh đã tháo biển xanh trả lại cho công an tỉnh Hậu Giang. Bí thư tỉnh Hậu Giang đã khẳng định, việc ông Thanh dùng xe riêng, không dùng công xa là điều đáng hoan nghênh, còn xe riêng gắn biển xanh để đi lại cho thuận tiện là điều bình thường, đừng nên làm ầm ĩ nhưng câu chuyện còn... ầm ĩ hơn trước.

Báo chí Việt Nam bắt đầu lật lại hồ sơ về ông Thanh, một người sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, tốt nghiệp đại học Kiến Trúc năm 1990, sau đó sang Đông Âu “làm ăn.” Năm 1995 ông Thanh quay về Việt Nam và năm 1996 được bổ nhiệm làm lãnh đạo một công ty của Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.

Đến năm 2000 ông Thanh chuyển qua làm phó giám đốc Chi Nhánh Hà Nội của Tổng Công Ty Sông Hồng, sau đó được đề bạt làm phó tổng giám đốc rồi làm tổng giám đốc của Tổng Công Ty Sông Hồng cho đến năm 2007, ông Thanh chuyển qua Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam (PVC).

Năm 2010, Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam được vinh danh là một trong mười “Sao vàng Đất Việt.”

Giữa năm 2013, người ta phát giác PVC thua lỗ 3,200 tỷ đồng! Ông Thanh lúc đó là chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của PVC đột nhiên được rút khỏi PVC để về làm trưởng văn phòng đại diện của Bộ Công Thương ở miền Trung. Vài tháng sau, vào đầu năm 2014, thủ tướng Việt Nam chỉ đạo điều tra - xử lý các sai phạm khiến PVC thua lỗ nghiêm trọng, nhiều thuộc cấp của ông Thanh bị tống giam, còn ông Thanh thì quay trở về Hà Nội làm... chánh Văn Phòng Ban Cán Sự Đảng của Bộ Công Thương.

Năm 2015, ông Thanh được “luân chuyển” về tỉnh Hậu Giang. Cần lưu ý rằng “luân chuyển” là bước khởi đầu của tiến trình chuẩn bị cho việc bổ nhiệm các viên chức đã được lựa chọn để đảm nhận những chức vụ cao hơn và quan trọng hơn. Trong trường hợp của ông Thanh, “luân chuyển” từ Bộ Công Thương về tỉnh Hậu Giang là bước khởi đầu để bước hàng ngũ các viên chức lãnh đạo chính quyền Việt Nam.

Giữa năm 2015, Hội đồng nhân dân tỉnh Hậu Giang họp phiên bất thường, bầu ông Thanh làm phó chủ tịch tỉnh. Mới đây, trong kỳ bầu cử toàn quốc hồi tháng 5 vừa qua, ông Thanh được bầu vào quốc hội.

Cả dân chúng lẫn báo giới cùng thắc mắc, ông Thanh lấy tiền từ đâu để sắm một chiếc xe hơi mà giá trị tới sáu tỷ đồng (?), phải chăng đó là tiền ông tham nhũng khi làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị của PVC (?). Hồi cuối tuần vừa qua, ông Thanh đăng đàn giải thích, chiếc xe trị giá sáu tỷ là của ông Nguyễn Đặng Toàn, ngụ tại Hà Nội. Ông Toàn đã bỏ 5.7 tỷ đồng mua chiếc Lexus 570 để cho ông Thanh mượn. Thậm chí ông Toàn còn bỏ gia đình, từ Hà Nội vào Hậu Giang, nộp đơn xin làm lái xe cho ông Thanh để “biết đó, biết đây,” dù lương tài xế chỉ có 2.8 triệu đồng/tháng!

Báo chí Việt Nam đã thử điều tra và mới tìm ra ông Toàn - bạn kiêm tài xế của ông Thanh còn là chủ nhân 4,000 cổ phần của một công ty thuộc PVC.

Cách nay vài thập niên, tổ chức thanh niên của chính quyền CSVN mở những cuộc vận động để có nhiều “đôi bạn cùng tiến” (giúp đỡ nhau tiến bộ). Có vẻ là ông Thanh và ông Toàn muốn sánh vai nhau để làm một “đôi bạn cùng tiến” nhưng cả dân chúng lẫn báo giới Việt Nam chỉ cười khẩy chứ không tin.

Nhiều người, trong đó có cả những viên chức đã nghỉ hưu đang đòi phải xem lại “công tác nhân sự.” Tại sao những người có nhiều dấu hiệu sai phạm như ông Thanh không những có thể vô sự mà còn có cơ hội luồn rất sâu, leo rất cao (?).

Trong trường hợp ông Thanh một số người đang đòi xem xét trách nhiệm của ông Tô Huy Rứa và ông Phạm Minh Chính. Ông Rứa là cựu Trưởng Ban Tổ Chức của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN còn ông Chính là người thay ông Rứa.

(Người Việt)


Ngày xưa có chuyện cưới chạy tang. Họa hoằn lắm mới làm như vậy.
           
Thời nay, cái sự chạy đa dạng lắm. Phổ biến đến mức muốn làm quan, đã làm quan đều phải chạy. Tài đức cũng bằng thừa, nếu không chịu chạy.
           
Chạy chức. Chạy tội. Chạy dự án. Chạy luân chuyển vv và vv.
           
Chính ông Nguyễn Phú Trọng, trong lần phát biểu tại một hội nghị xây dựng đảng, đề cập dư luận xã hội nêu vấn đề chạy luân chuyển. Ông Trọng đặt câu hỏi: có hay không chuyện chạy luân chuyển, ai chạy, chạy ai?
          
 Tận bây giờ ông Trọng mới nêu chuyện chạy luân chuyển.
          
 Người dân và  những cán bộ chân chính, đã lên tiếng lột mặt nạ chạy luân chuyển từ lâu, ngay từ khi sinh ra chủ trương này.
          
 Nhìn vào từng trường hợp luân chuyển, dân chúng dễ dàng nhận ra đáp số chạy hay không chạy.
            
Cũng là luân chuyển nhưng có chạy hay không sẽ cho đáp số hoàn toàn khác biệt.
          
  Luân chuyển, nếu không chạy, là xuống thang, phải đến những nơi đầu thừa đuôi thẹo. Sau khi luân chuyển chỉ ngồi chơi, xơi nước.
           
 Chạy để được luân chuyển bằng giá cao, giống như vào siêu thị tự chọn, thích gì được nấy.
            
Vị trí nơi được luân chuyển tỷ lệ thuận với khoản tiền dùng để chạy. Dĩ nhiên ở đây còn có sự bổ trợ của phe cánh, lợi ích nhóm.
            
 Nếu không chạy, ông Trịnh Xuân Thanh nằm mơ cũng không có được cái chức danh Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang.
            
 Phải chạy. Chạy nhiều cửa. Chạy bằng mọi giá. Đó là đầu vào, để có được đầu ra Phó chủ tịch UBND tỉnh đối với ông Trịnh Xuân Thanh.
              
Ai chạy? Chạy ai? Phải vạch mặt và trừ khử cả hai. Nhưng đầu sỏ, phải khử đầu tiên, là bọn nằm trong nhóm "chạy ai".
             
 Bè lũ chạy ai nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Chúng là kẻ buôn vua. Chúng đưa ra quyết định, luân chuyển ai, luân chuyển đến đâu, trước hết và chủ yếu dựa vào tiền và... tiền. Bộ máy hư hỏng là do bọn này.
             
Nguyên là chủ tịch HĐQT Công ty Xây lắp dầu khí (PVC), ông Trịnh Xuân Thanh làm cho doanh nghiệp này tan nát, thua lỗ hàng nghìn tỉ đồng. Trong núi tiền không cánh mà bay của PVC, chắc chắn có một khoản không nhỏ đưa vào “hạng mục” chạy luân chuyển để ông Trịnh Xuân Thanh được hất lên Bộ Công Thương, sau đó chạy tiếp về địa phương với chức vụ tương đương thứ trưởng.
            
 Chạy và chạy. Luân chuyển và luân chuyển. Sau mỗi lần luân chuyển bằng chạy, ông Trịnh Xuân Thanh được trao cho chức tước cao hơn.
          
  Những kẻ lập nghiệp bằng chạy thường có cách sống ngỗ ngược, coi trời bằng vung. Họ mua được cấp trên, hành xử với cấp trên theo kiểu chào thầy trước mặt, trật cặc sau lưng. Với cấp dưới và dân chúng, họ coi như… dưới dép.
           
 Có những người chê ông Trịnh Xuân Thanh dại. Bởi vì dại nên sử dụng xe siêu sang Lexus (trị giá gần 5 tỉ đồng). Xe cá nhân lại mang biển số xanh cũng là dại. Nhưng, chẳng phải là dại. Người có thâm niên chạy luân chuyển như ông Trịnh Xuân Thanh đâu có dại. Cái mà người đời tưởng là dại, với ông Trịnh Xuân Thanh, thực chất đó là thói sống ngỗ ngược, coi trời bằng vung của kẻ chạy luân chuyển mua chức bằng mọi giá.
           
 Không cần kiểm tra cũng biết được ông Trịnh Xuân Thanh có sai phạm nghiêm trọng sử dụng xe ô tô hay không. Sai phạm này chỉ là giọt nước làm tràn ly.
           
 Điều sai phạm cần làm rõ đối với ông này không phải chuyện ô tô mà chính là chạy luân chuyển.
           
 Chạy ai? Câu trả lời hiện hữu trong thực tế, không thể chối cãi. Liên quân kiểm tra, bao gồm các ngành chuyên trách của trung ương, có dám công khai vạch trần sự thật xuất xứ từ chạy luân chuyển?
           
Xử lý sai phạm của ông Trịnh Xuân Thanh là quá dễ.
           
 Nhưng lôi ra ánh sáng những khuyết tật sinh ra từ luân chuyển, hậu quả của nó, không để tái diễn, đó là gốc của vấn đề. Việc này quan trọng hơn nhiều.

Bá Tân (nhà báo)

(Blog Nguyễn Thông)
16:00 Unknown


Ngày xưa có chuyện cưới chạy tang. Họa hoằn lắm mới làm như vậy.
           
Thời nay, cái sự chạy đa dạng lắm. Phổ biến đến mức muốn làm quan, đã làm quan đều phải chạy. Tài đức cũng bằng thừa, nếu không chịu chạy.
           
Chạy chức. Chạy tội. Chạy dự án. Chạy luân chuyển vv và vv.
           
Chính ông Nguyễn Phú Trọng, trong lần phát biểu tại một hội nghị xây dựng đảng, đề cập dư luận xã hội nêu vấn đề chạy luân chuyển. Ông Trọng đặt câu hỏi: có hay không chuyện chạy luân chuyển, ai chạy, chạy ai?
          
 Tận bây giờ ông Trọng mới nêu chuyện chạy luân chuyển.
          
 Người dân và  những cán bộ chân chính, đã lên tiếng lột mặt nạ chạy luân chuyển từ lâu, ngay từ khi sinh ra chủ trương này.
          
 Nhìn vào từng trường hợp luân chuyển, dân chúng dễ dàng nhận ra đáp số chạy hay không chạy.
            
Cũng là luân chuyển nhưng có chạy hay không sẽ cho đáp số hoàn toàn khác biệt.
          
  Luân chuyển, nếu không chạy, là xuống thang, phải đến những nơi đầu thừa đuôi thẹo. Sau khi luân chuyển chỉ ngồi chơi, xơi nước.
           
 Chạy để được luân chuyển bằng giá cao, giống như vào siêu thị tự chọn, thích gì được nấy.
            
Vị trí nơi được luân chuyển tỷ lệ thuận với khoản tiền dùng để chạy. Dĩ nhiên ở đây còn có sự bổ trợ của phe cánh, lợi ích nhóm.
            
 Nếu không chạy, ông Trịnh Xuân Thanh nằm mơ cũng không có được cái chức danh Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang.
            
 Phải chạy. Chạy nhiều cửa. Chạy bằng mọi giá. Đó là đầu vào, để có được đầu ra Phó chủ tịch UBND tỉnh đối với ông Trịnh Xuân Thanh.
              
Ai chạy? Chạy ai? Phải vạch mặt và trừ khử cả hai. Nhưng đầu sỏ, phải khử đầu tiên, là bọn nằm trong nhóm "chạy ai".
             
 Bè lũ chạy ai nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Chúng là kẻ buôn vua. Chúng đưa ra quyết định, luân chuyển ai, luân chuyển đến đâu, trước hết và chủ yếu dựa vào tiền và... tiền. Bộ máy hư hỏng là do bọn này.
             
Nguyên là chủ tịch HĐQT Công ty Xây lắp dầu khí (PVC), ông Trịnh Xuân Thanh làm cho doanh nghiệp này tan nát, thua lỗ hàng nghìn tỉ đồng. Trong núi tiền không cánh mà bay của PVC, chắc chắn có một khoản không nhỏ đưa vào “hạng mục” chạy luân chuyển để ông Trịnh Xuân Thanh được hất lên Bộ Công Thương, sau đó chạy tiếp về địa phương với chức vụ tương đương thứ trưởng.
            
 Chạy và chạy. Luân chuyển và luân chuyển. Sau mỗi lần luân chuyển bằng chạy, ông Trịnh Xuân Thanh được trao cho chức tước cao hơn.
          
  Những kẻ lập nghiệp bằng chạy thường có cách sống ngỗ ngược, coi trời bằng vung. Họ mua được cấp trên, hành xử với cấp trên theo kiểu chào thầy trước mặt, trật cặc sau lưng. Với cấp dưới và dân chúng, họ coi như… dưới dép.
           
 Có những người chê ông Trịnh Xuân Thanh dại. Bởi vì dại nên sử dụng xe siêu sang Lexus (trị giá gần 5 tỉ đồng). Xe cá nhân lại mang biển số xanh cũng là dại. Nhưng, chẳng phải là dại. Người có thâm niên chạy luân chuyển như ông Trịnh Xuân Thanh đâu có dại. Cái mà người đời tưởng là dại, với ông Trịnh Xuân Thanh, thực chất đó là thói sống ngỗ ngược, coi trời bằng vung của kẻ chạy luân chuyển mua chức bằng mọi giá.
           
 Không cần kiểm tra cũng biết được ông Trịnh Xuân Thanh có sai phạm nghiêm trọng sử dụng xe ô tô hay không. Sai phạm này chỉ là giọt nước làm tràn ly.
           
 Điều sai phạm cần làm rõ đối với ông này không phải chuyện ô tô mà chính là chạy luân chuyển.
           
 Chạy ai? Câu trả lời hiện hữu trong thực tế, không thể chối cãi. Liên quân kiểm tra, bao gồm các ngành chuyên trách của trung ương, có dám công khai vạch trần sự thật xuất xứ từ chạy luân chuyển?
           
Xử lý sai phạm của ông Trịnh Xuân Thanh là quá dễ.
           
 Nhưng lôi ra ánh sáng những khuyết tật sinh ra từ luân chuyển, hậu quả của nó, không để tái diễn, đó là gốc của vấn đề. Việc này quan trọng hơn nhiều.

Bá Tân (nhà báo)

(Blog Nguyễn Thông)

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016


Nói không quá lời, việc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa yêu cầu Ban Kiểm tra Trung ương Đảng và các ban ngành, địa phương liên quan phải làm rõ những vấn đề “chưa tỏ” dính dáng tới ông Trịnh Xuân Thanh – Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, là được khởi nguồn từ chuyện chiếc xe công, còn gọi là xe biển xanh. Nếu không có sự phát hiện tình trạng lạ đời của chiếc xe biển xanh ấy, có thể mọi điều vẫn trôi chảy bình thường, thậm chí tất cả, kể cả ông Thanh, đều tốt đẹp.

Những ồn ào của dư luận và báo chí, những thắc mắc của người dân rồi sẽ sớm được giải đáp sau kết luận của Trung ương, cụ thể là nguồn gốc lai lịch thực của chiếc xe, việc cấp biển số sai quy định, việc đề bạt luân chuyển cán bộ, việc xét khen thưởng thi đua, việc sử dụng đánh giá con người… Cái sảy nảy cái ung, chỉ cần sai một công đoạn, một khâu nào đó cũng sẽ dẫn đến hàng loạt sai phạm khác, mà trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh là ví dụ điển hình.

Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra vấn đề đã được bàn thảo lâu nay mà chưa đi đến đâu: chuyện xe công.

Tôi nhớ không lầm, cách nay đúng 10 năm, dư luận ồn lên về chuyện xe công khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết về khoán xe công. Nghị quyết được ban hành nhưng sau đó không mấy cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân thực hiện. Hình như dạo ấy chỉ duy nhất có ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội gương mẫu chấp hành. Ông trả lại nhà nước chiếc xe tiêu chuẩn cấp cho ông, và đương nhiên không cần tài xế riêng, ông tự đi làm bằng taxi, xe ôm. Chấm dứt việc nhà nước phải chi ra cả đống tiền mua xe, trả lương lái xe, sửa chữa xe, bảo trì bảo dưỡng xe định kỳ… Một cán bộ cấp cao có hàm tương đương thứ trưởng đi làm công vụ bằng phương tiện xe ôm, cứ như chuyện cổ tích, chuyện bịa. Người khen cũng lắm, kẻ chê cũng nhiều. Có người còn mỉa, cho là ông Thuận làm màu, ra vẻ ta đây. Nhiều cán bộ to không thích việc ông Thuận làm bởi nó ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Rốt cục, đến nay dường như mới chỉ có một mình ông Thuận áp dụng nghị quyết của Quốc hội.

Xét công bằng, không phải nhà nước không quan tâm đến tình trạng xe công, nhất là sự lãng phí và phát sinh nhiều trớ trêu ở bộ phận khá nhạy cảm này. Ngày 4.8.2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định số 32/2015/QĐ-Ttg về tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô công. Bản quyết định nêu rất rõ đối tượng được dùng, xe loại nào, giá tiền bao nhiêu, dùng vào việc gì, nghiêm cấm làm sao… Chỉ có điều, quyết định không được cán bộ quán triệt nghiêm túc, văn bản vẫn đi một đằng, thực tế chạy ra một nẻo.

Thế mới có chuyện ông Trịnh Xuân Thanh chỉ là Phó chủ tịch tỉnh, không có tiêu chuẩn dùng xe công riêng nhưng vẫn cứ “ra ở riêng”. Đã thế quyết định 32 quy định rõ ngay cả chủ tịch tỉnh cũng chỉ được sử dụng xe có mức giá tối đa 920 triệu đồng thì ông xài luôn siêu xe Lexus giá vài tỉ. Nếu ông chịu khó dùng xe biển trắng (tư nhân) thì dù đi siêu xe cỡ xe Cadillac One của ông Obama có lẽ dư luận cũng chỉ xì xào chút ít, đằng này ông lại đeo cho nó cái biển xanh đầy uy lực. Quan chưa hẳn to mà cưỡi xe vài tỉ thì quá "coi trời bằng vung", bằng “lạy ông tôi ở bụi này”, coi thường kỷ cương phép nước, dư luận và trung ương không tha là đúng rồi.

Cái xe công biển xanh, nhất là biển 80B thì oai ngất trời. Nó thuộc hàng thiên lý mã, hạng Xích thố trong đám ngựa sắt, đi tới đâu cũng khiến cả đàn ngưỡng mộ, e ngại. Đành rằng người chức việc nhà nước làm việc công thì phải có xe phục vụ, nhưng thiết nghĩ tại sao cứ phải xe công, xe biển xanh. Nếu đi xe “không công”, tức xe biển trắng, xe tư nhân, chả nhẽ không làm được việc, chả nhẽ hiệu quả giảm đi. Thực tế cho thấy, ông Trần Quốc Thuận khi còn đương chức kêu xe ôm, taxi đi làm, công việc vẫn chạy (như lời ông kể), gần gũi đời thường, nhân dân yêu mến, chỉ có mỗi điều đa số cán bộ không thích. Làm việc nhà nước, với sự công bằng chính trực, thì xe nào chả được. Chỉ ai nhằm ẩn chứa điều gì cá nhân, tư lợi thì mới khư khư ôm không nhả xe công. Cái biển số xanh không chỉ giải quyết khâu oai, bệnh sĩ, vênh váo với thiên hạ mà còn có thể tận dụng vào nhiều thứ khác. Chả hiếm vụ xe công chở vợ con quan chức đi chơi, tới chùa lễ bái, ăn tiệc, về quê, thậm chí chỉ lâu lâu vi vu vài vòng cho thiên hạ lác mắt; chở hàng lậu; vượt đèn đỏ, vi phạm luật giao thông nhưng dễ được cảnh sát giao thông bỏ qua, thông cảm… Thế thì tội gì không hưởng, không xài, tội gì mà nhả. Chả dại như ông Thuận.

Một nước còn nghèo, phải nhặt nhạnh từng li từng tí để “nâng niu gom góp dựng cơ đồ”, từng hạt gạo, con tôm, hột điều, giọt dầu… xuất khẩu làm giàu cho đất nước, vậy mà cán bộ (chỉ có cán bộ mới được dùng xe công) lại vung tay quá trán, xài sang, không thèm hưởng ứng chủ trương tiết kiệm. Cứ như con số do Bộ Tài chính công bố năm 2015, ngân sách nhà nước mỗi năm phải chi hơn 13.000 tỉ đồng nuôi xe công, nghĩ mà xót xa. Trường học còn thiếu, giường bệnh chưa đủ, cầu cống đường sá cho miền núi vùng sâu vùng xa vẫn quá ọp ẹp nhì nhằng, chỉ riêng có đám xe công là ngày càng nhiều thêm. Giá như có sự ngược lại thì tốt biết bao nhiêu.

Chợt nghĩ vẩn vơ, biết đến bao giờ nhìn đâu cũng thấy những cán bộ gương mẫu như ông Trần Quốc Thuận.

Nguyễn Thông

(Blog Nguyễn Thông)
16:00 Unknown

Nói không quá lời, việc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa yêu cầu Ban Kiểm tra Trung ương Đảng và các ban ngành, địa phương liên quan phải làm rõ những vấn đề “chưa tỏ” dính dáng tới ông Trịnh Xuân Thanh – Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, là được khởi nguồn từ chuyện chiếc xe công, còn gọi là xe biển xanh. Nếu không có sự phát hiện tình trạng lạ đời của chiếc xe biển xanh ấy, có thể mọi điều vẫn trôi chảy bình thường, thậm chí tất cả, kể cả ông Thanh, đều tốt đẹp.

Những ồn ào của dư luận và báo chí, những thắc mắc của người dân rồi sẽ sớm được giải đáp sau kết luận của Trung ương, cụ thể là nguồn gốc lai lịch thực của chiếc xe, việc cấp biển số sai quy định, việc đề bạt luân chuyển cán bộ, việc xét khen thưởng thi đua, việc sử dụng đánh giá con người… Cái sảy nảy cái ung, chỉ cần sai một công đoạn, một khâu nào đó cũng sẽ dẫn đến hàng loạt sai phạm khác, mà trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh là ví dụ điển hình.

Ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra vấn đề đã được bàn thảo lâu nay mà chưa đi đến đâu: chuyện xe công.

Tôi nhớ không lầm, cách nay đúng 10 năm, dư luận ồn lên về chuyện xe công khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết về khoán xe công. Nghị quyết được ban hành nhưng sau đó không mấy cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân thực hiện. Hình như dạo ấy chỉ duy nhất có ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội gương mẫu chấp hành. Ông trả lại nhà nước chiếc xe tiêu chuẩn cấp cho ông, và đương nhiên không cần tài xế riêng, ông tự đi làm bằng taxi, xe ôm. Chấm dứt việc nhà nước phải chi ra cả đống tiền mua xe, trả lương lái xe, sửa chữa xe, bảo trì bảo dưỡng xe định kỳ… Một cán bộ cấp cao có hàm tương đương thứ trưởng đi làm công vụ bằng phương tiện xe ôm, cứ như chuyện cổ tích, chuyện bịa. Người khen cũng lắm, kẻ chê cũng nhiều. Có người còn mỉa, cho là ông Thuận làm màu, ra vẻ ta đây. Nhiều cán bộ to không thích việc ông Thuận làm bởi nó ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Rốt cục, đến nay dường như mới chỉ có một mình ông Thuận áp dụng nghị quyết của Quốc hội.

Xét công bằng, không phải nhà nước không quan tâm đến tình trạng xe công, nhất là sự lãng phí và phát sinh nhiều trớ trêu ở bộ phận khá nhạy cảm này. Ngày 4.8.2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định số 32/2015/QĐ-Ttg về tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô công. Bản quyết định nêu rất rõ đối tượng được dùng, xe loại nào, giá tiền bao nhiêu, dùng vào việc gì, nghiêm cấm làm sao… Chỉ có điều, quyết định không được cán bộ quán triệt nghiêm túc, văn bản vẫn đi một đằng, thực tế chạy ra một nẻo.

Thế mới có chuyện ông Trịnh Xuân Thanh chỉ là Phó chủ tịch tỉnh, không có tiêu chuẩn dùng xe công riêng nhưng vẫn cứ “ra ở riêng”. Đã thế quyết định 32 quy định rõ ngay cả chủ tịch tỉnh cũng chỉ được sử dụng xe có mức giá tối đa 920 triệu đồng thì ông xài luôn siêu xe Lexus giá vài tỉ. Nếu ông chịu khó dùng xe biển trắng (tư nhân) thì dù đi siêu xe cỡ xe Cadillac One của ông Obama có lẽ dư luận cũng chỉ xì xào chút ít, đằng này ông lại đeo cho nó cái biển xanh đầy uy lực. Quan chưa hẳn to mà cưỡi xe vài tỉ thì quá "coi trời bằng vung", bằng “lạy ông tôi ở bụi này”, coi thường kỷ cương phép nước, dư luận và trung ương không tha là đúng rồi.

Cái xe công biển xanh, nhất là biển 80B thì oai ngất trời. Nó thuộc hàng thiên lý mã, hạng Xích thố trong đám ngựa sắt, đi tới đâu cũng khiến cả đàn ngưỡng mộ, e ngại. Đành rằng người chức việc nhà nước làm việc công thì phải có xe phục vụ, nhưng thiết nghĩ tại sao cứ phải xe công, xe biển xanh. Nếu đi xe “không công”, tức xe biển trắng, xe tư nhân, chả nhẽ không làm được việc, chả nhẽ hiệu quả giảm đi. Thực tế cho thấy, ông Trần Quốc Thuận khi còn đương chức kêu xe ôm, taxi đi làm, công việc vẫn chạy (như lời ông kể), gần gũi đời thường, nhân dân yêu mến, chỉ có mỗi điều đa số cán bộ không thích. Làm việc nhà nước, với sự công bằng chính trực, thì xe nào chả được. Chỉ ai nhằm ẩn chứa điều gì cá nhân, tư lợi thì mới khư khư ôm không nhả xe công. Cái biển số xanh không chỉ giải quyết khâu oai, bệnh sĩ, vênh váo với thiên hạ mà còn có thể tận dụng vào nhiều thứ khác. Chả hiếm vụ xe công chở vợ con quan chức đi chơi, tới chùa lễ bái, ăn tiệc, về quê, thậm chí chỉ lâu lâu vi vu vài vòng cho thiên hạ lác mắt; chở hàng lậu; vượt đèn đỏ, vi phạm luật giao thông nhưng dễ được cảnh sát giao thông bỏ qua, thông cảm… Thế thì tội gì không hưởng, không xài, tội gì mà nhả. Chả dại như ông Thuận.

Một nước còn nghèo, phải nhặt nhạnh từng li từng tí để “nâng niu gom góp dựng cơ đồ”, từng hạt gạo, con tôm, hột điều, giọt dầu… xuất khẩu làm giàu cho đất nước, vậy mà cán bộ (chỉ có cán bộ mới được dùng xe công) lại vung tay quá trán, xài sang, không thèm hưởng ứng chủ trương tiết kiệm. Cứ như con số do Bộ Tài chính công bố năm 2015, ngân sách nhà nước mỗi năm phải chi hơn 13.000 tỉ đồng nuôi xe công, nghĩ mà xót xa. Trường học còn thiếu, giường bệnh chưa đủ, cầu cống đường sá cho miền núi vùng sâu vùng xa vẫn quá ọp ẹp nhì nhằng, chỉ riêng có đám xe công là ngày càng nhiều thêm. Giá như có sự ngược lại thì tốt biết bao nhiêu.

Chợt nghĩ vẩn vơ, biết đến bao giờ nhìn đâu cũng thấy những cán bộ gương mẫu như ông Trần Quốc Thuận.

Nguyễn Thông

(Blog Nguyễn Thông)

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Lần đầu nhìn thấy tên của mình, bên cạnh tên một con bé học cùng lớp - được viết thật to trên bảng, lồng khung trong hình một quả tim - mặt tôi bỗng đỏ bừng lên vì ngượng ngập, sung sướng và... hạnh phúc! Hạnh phúc ở tuổi ấu thơ sao mà giản dị, nhẹ nhàng, dễ dàng, lảng xẹc (và dễ ẹc) như vậy - hả Trời? Tôi vẫn cứ nhớ mãi cái cảm giác hơi choáng váng, có pha lẫn một chút ngây ngất, rạo rực như thế - cho mãi đến bây giờ.

tuongnangtien's pictureVà bây giờ thì chắc chắn ông Hà Sĩ Phu cũng sẽ choáng váng (thấy mẹ luôn) khi "bỗng" nhìn thấy tên mình bên cạnh tên bà... Tôn Nữ Thị Ninh! Tôi cũng sợ rằng ông ấy sẽ không cảm thấy rạo rực, ngất ngây, sung sướng hay hạnh phúc gì cho lắm - khi có một người phụ nữ (cỡ) như bà Ninh đột ngột xuất hiện và đi (sát ngay) bên cạnh cuộc đời mình, như thế.

Dù biết thế, và dù cũng hết sức áy náy cho ông Hà Sĩ Phu, tôi vô cùng tiếc là đã không không có cách chi giúp cho đương sự thoát khỏi tình huống rất khó khó khăn (và khó coi) như hiện cảnh. "Chuyện tình" giữa bà Tôn Nữ Thị Ninh và ông Hà Sĩ Phu (kể) cũng hơi dài. Xin được bắt đầu bằng một bài báo ngắn, với tựa là "Sống Ðời Chùm Gửi" của Nguyễn Triều, trên báo Người Lao Động:

"Khách uống cà phê trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 10 không lạ gì một thanh niên bán vé số ngoài ba mươi tuổi bị liệt chân, di chuyển bằng tay trên hai chiếc ghế gỗ. Ðáng chú ý ở chỗ, tháp tùng theo anh là một thanh niên trẻ hơn, cao lớn và khoẻ mạnh. Mọi việc diễn ra đã được lập trình sẵn: Người thanh niên liệt chân vào quán mời khách, anh chàng 'hộ pháp' lên xe lăn ngồi chờ!

"Có một cặp khác, bà lão 'cổ lai hy' được 'hộ tống' bởi một thanh niên khoảng hai muơi tuổi. Qui trình làm việc của cặp này được 'phô tô' giống hệt cặp kia... Rõ ràng ở đây hai anh chàng khỏe mạnh kia đang sống nhờ vào đôi chân què quặt của người thanh niên và cái dáng lom khom của bà lão bẩy muơi."  

Tưởng gì chứ "sống nhờ" vào sự khốn cùng, và nỗi bất hạnh của kẻ khác thì ở Việt Nam (bây giờ) kể-như-là-chuyện-nhỏ, và là chuyện vô cùng phổ biến. Có nhiều trường hợp "rõ ràng" hơn và tệ hại hơn nhiều nhưng Nguyễn Triều không biết; hoặc giả, tuy cũng có biết nhưng nhà báo ( quốc doanh) thấy không "tiện" nói. Xin đơn cử vài trường hợp (hơi) khó nói:

Sau chuyến đi thăm những trại cùi ở Việt Nam, linh mục Ðinh Thanh Bình đã tường thuật như sau:

"Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu... Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn trợ cấp 15 Úc Kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết.

Nhà nước chỉ giỏi cướp công, mỗi lần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di Linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu, vô túi ai không biết, vì Di Linh không hề nhận được thêm đồng cắc nào.

Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho đến mùa Tết tháng sau"

Và đây là chuyện xẩy ra ở một cái trại khác:

"Chị tôi rủ đi thăm một trường câm điếc ở Sông Bé... Chúng tôi chất thức ăn lên xe, bánh mì ổ, nồi 'la gu' (lỏng chỏng thịt bò xắt cục, khoai lang trôi trong nước súp đùng đục), thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái. Chị bảo ít vậy chứ nấu từ 3 giờ sáng, mà cũng nhiều người góp của lắm nghe mới đủ một bữa trưa cho mấy đứa nhỏ."

"Chúng tôi đem thức ăn vào nhà bếp để hâm lại. Trường có hai dẫy dành cho học sinh nam và nữ cách nhau một sân rộng và một hàng rào. Tôi được sơ hiệu phó giới thiệu với một người đàng ông có tuổi tầm vóc trung bình, ốm, nét mặt thông minh đang ngồi trong căn phòng của ban Giám hiệu:

Ðây là anh B, Hiệu Trưởng, đảng viên nhưng rất cởi mở...

"Rồi ông và sơ thay nhau nói về thành tích của trường. Năm 1886, các cha người Pháp dòng Phao-lồ thành lập, đến nay có 270 học sinh nhưng vì thiếu tiền nên nhà nước chỉ nuôi 250 đứa, mỗi tháng phát 55 ngàn cho mỗi em, thành thử nhu cầu bức thiết của trường không phải là giấy mực hay sách giáo khoa mà là thực phẩm... " (Lý Không Minh. Ngày Về Của Quỷ. Ðồng Dao, Victoria, 1977, 33).

Sao (đ... mẹ) mâm nào cũng có tụi nó ngồi sẵn ở đó - vậy cà? Kể cả những mâm ăn mà "khoai lang trôi trong nước súp đùng đục, thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái" mà bao kẻ đã phải dành dụm, chắt bóp để chia sẻ với những đứa bé thơ câm điếc. Quý vị đảng viên cộng sản Việt Nam khiến tôi liên tưởng đến hai người đàn ông "hộ pháp" - luôn luôn ngồi chờ một bà lão già và một thanh niên khuyết tật đang bò lê bán vé số - ở đường Nguyễn Chí Thanh, Sài Gòn.

Hai người này đã bị ông nhà báo Nguyễn Triều gọi là những kẻ sống đời ký sinh hay chùm gửi. Lời kết án này e (hơi) vội vã, và cũng có phần (quá) khắt khe. Ðẩy xe lăn cho một người già nua hay phế tật đi bán vé số là một hình thức cộng sinh, một cách hợp tác để sinh tồn, dù cách phân công trông (có vẻ) hơi khó coi chút đỉnh.

Và nó chỉ "có vẻ" thế thôi chứ chưa hẳn đã thế. Không ai biết đích xác liên hệ giữa những người trong cuộc ra sao và chuyện họ chung sức làm ăn được chia chác thế nào? Còn cái cách kiếm tiền của Ðảng và Nhà Nước CSVN (dựa trên lòng trắc ẩn mà nhân loại dành cho những người dân kém may mắn nhất ở xứ sở này) thì rõ ràng (và hoàn toàn) không sòng phẳng.

Sơ Giám Ðốc Trung Tâm Mai Hoà, nơi chăm sóc cho những bệnh nhân liệt kháng ở Củ Chi, đã cho biết thế này: "Một triệu đô la Mỹ viện trợ khi tới tay trung tâm may ra còn một triệu đồng Việt Nam."

Một cá nhân có thể sống cuộc đời chùm gửi nhưng một dân tộc thì không. Theo đuổi chính sách sống bám là chủ trương của một chế độ bệnh hoạn; đã thế, còn huyênh hoang và tự mãn về lối sống đời ký sinh của mình thì kể như là hết thuốc.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh có thể coi như là một thí dụ tiêu biểu và điển hình cho cái loại người hết thuốc (chữa) như thế. Với cương vị Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Ðối Ngoại Quốc Hội, cuối năm 2004, bà Ninh đã được phái đến Hoa Kỳ gần một tháng.

Chuyến công du này - trên danh nghĩa - có mục đích nhằm cải thiện mối tương giao (vốn chưa bao giờ tốt đẹp) giữa Việt Nam với Mỹ, và với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở đất nước này.

Theo ngôn ngữ của báo chí của người Việt ở hải ngoại thì bà Tôn Nữ Thị Ninh có nhiệm vụ đi "giải độc". Bà Ninh đi đâu, gặp gỡ những ai, giải độc (hay rải độc) thế nào..., tôi tuyệt đối không hề bận tâm. Tôi không có rảnh rỗi đến thế.

Dù thế, tôi vẫn hết sức kinh ngạc khi đọc tường những bài phỏng vấn của báo chí ở Việt Nam dành cho bà Ninh - sau chuyến đi này. Bà Ninh giễu cợt khi kể lại những biểu tình phản đối sự hiện diện của mình ở Hoa Kỳ, và đối với cộng đồng người Việt tị nạn ở nơi đây - cái tập thể mà hằng năm vẫn chăm chỉ và đều đặn gửi về VN vài ba tỉ đô la - bà Tôn Nữ Thị Ninh đã (thỏ thẻ) bỏ nhỏ như sau, trên báo Thanh Niên:

"Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử"

Dân Việt có thành ngữ (thú vị) là "đi xa về nói khoác". Tôi cũng thuộc loại người khoác lác, cỡ một tấc đến Giời, nhất là sau khi đã uống sương sương vài ba ly Cognac, nhưng nghe qua miệng lưỡi của "Madame Ninh" thì (chợt) biết mình còn yếu cơ - thấy rõ.

Cái nhìn của tôi về thế sự, xem ra, cũng không được "bao la và trời biển" như "Bà Ðại Sứ". Tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không thấy ra "cái vị trí thuận lợi trong tiến trình lịch sử " của nhà đương cuộc Hà Nội - trong hiện cảnh.

Nếu dân làng Ba Ðình đang thực sự ở "thế thượng phong" thì quý quan chức ngoại giao như ông Nguyễn Ðình Bin, Nguyễn Phú Bình và bà Tôn Nữ Thị Ninh đâu đến nỗi phải bị gậy túa đi khắp mọi nơi. Tôi cũng có dịp đi qua nhiều xứ sở, gặp đủ kiểu và đủ cỡ hành khất nhưng chưa thấy ai đi ăn xin với giọng điệu hợm hĩnh (và ngu xuẩn) quá cỡ như vậy.

Thái độ láu cá và trơ tráo của bà Tôn Nữ Thị Ninh khiến tôi thấy nhớ (và thương) ông Hà Sĩ Phu hết sức. Loại người như bà Ninh tôi mới thấy lần đầu nhưng sĩ phu họ Hà chắc phải đối diện thường xuyên nên ông mô tả diện mạo cũng như phương thức sinh hoạt của họ vô cùng chính xác:

"Thế giới sinh vật đã cho ta những ví dụ rất rõ về vấn đề này. Con đường tiến hóa là: Sinh vật đơn bào phải đa bào hóa, trên cơ sở đa bào mới phân hóa thành những cơ quan khác nhau, giữa các cơ quan ngày càng có sự 'phân công' rành rọt nhưng ngày càng phối hợp với nhau chặt chẽ bởi sự chỉ huy càng ngày càng tập trung của hệ thần kinh. Cứ thế mà tiến hóa từ thấp lên cao, và cuối cùng xuất hiện loài người chúng ta."

"Nhưng có những sinh vật đơn bào không đi vào con đường đa bào hóa mà thích nghi bằng cách 'tu sửa vặt', 'bổ sung vặt', khiến cho bên trong cái tế bào duy nhất của nó cũng có đủ thứ như một cơ thể đa bào: có một chút tượng trưng cho 'tim', một chút tượng trưng cho 'dạ dầy', một chút 'thận', một chút 'giác quan', một chút 'thần kinh', một chút 'chân tay'...

Chúng kéo dài cái cấu trúc 'cổ lỗ' ấy suốt mấy triệu năm, và vĩnh viễn không thể 'gia nhập' vào con đường tiến hóa chung được nữa. Nếu chỉ lấy sự 'sống chết' để đo mức độ tiến hóa thì những sinh vật đơn bào ấy hẳn là 'cao' hơn con người người nhiều, vứt ra bất cứ cống rãnh nào chúng cũng sinh sôi".

" Ðiều kiện để có sự tiến hóa là phải có nguy cơ bị tiêu diệt: Nếu không tiến hóa nó sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn! Sự 'tu sửa vặt' chính là 'giải pháp' giúp cho sinh vật 'lách' qua được sự đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt, vượt qua nguy cơ bị tiêu diệt mà không cần đến con đường chính thống, nhưng chính sự 'thành công' này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa". ("Ðôi Ðiều Suy Nghĩ Của Một Công Dân". Tuyển Tập Hà Sĩ Phu. Phong Trào Nhân Quyền Cho Việt Nam Năm 2000 và Tạp Chí Thế Kỷ 21 xuất bản tháng 1 năm 96, trang 99 và 100).

Bước vào kỷ nguyên toàn cầu, trong thời kỳ đất nước đổi mới, quý vị lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng có nhiều "tu sửa vặt" và "bổ sung vặt" rất thành công. Ít nhất thì họ cũng thành công trong việc giữ cho chế độ chưa bị sụp đổ. Và chính sự "thành công" này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa!

Báo chí quốc nội cũng mô tả chuyến đi của bà Tôn Nữ Thị Ninh là thành công. Nếu đúng thế - theo tôi - đây chưa hẳn đã là điều đáng mừng mà (không chừng) còn là chuyện đáng lo. Ðể cho những những sinh vật đơn bào - hay nói rõ ra là sán lãi - sống ký sinh (thành công) trong cơ thể của mình không phải là chuyện đáng lo sao?

Tưởng Năng Tiến

(Blog RFA)
23:30 Unknown
Lần đầu nhìn thấy tên của mình, bên cạnh tên một con bé học cùng lớp - được viết thật to trên bảng, lồng khung trong hình một quả tim - mặt tôi bỗng đỏ bừng lên vì ngượng ngập, sung sướng và... hạnh phúc! Hạnh phúc ở tuổi ấu thơ sao mà giản dị, nhẹ nhàng, dễ dàng, lảng xẹc (và dễ ẹc) như vậy - hả Trời? Tôi vẫn cứ nhớ mãi cái cảm giác hơi choáng váng, có pha lẫn một chút ngây ngất, rạo rực như thế - cho mãi đến bây giờ.

tuongnangtien's pictureVà bây giờ thì chắc chắn ông Hà Sĩ Phu cũng sẽ choáng váng (thấy mẹ luôn) khi "bỗng" nhìn thấy tên mình bên cạnh tên bà... Tôn Nữ Thị Ninh! Tôi cũng sợ rằng ông ấy sẽ không cảm thấy rạo rực, ngất ngây, sung sướng hay hạnh phúc gì cho lắm - khi có một người phụ nữ (cỡ) như bà Ninh đột ngột xuất hiện và đi (sát ngay) bên cạnh cuộc đời mình, như thế.

Dù biết thế, và dù cũng hết sức áy náy cho ông Hà Sĩ Phu, tôi vô cùng tiếc là đã không không có cách chi giúp cho đương sự thoát khỏi tình huống rất khó khó khăn (và khó coi) như hiện cảnh. "Chuyện tình" giữa bà Tôn Nữ Thị Ninh và ông Hà Sĩ Phu (kể) cũng hơi dài. Xin được bắt đầu bằng một bài báo ngắn, với tựa là "Sống Ðời Chùm Gửi" của Nguyễn Triều, trên báo Người Lao Động:

"Khách uống cà phê trên đường Nguyễn Chí Thanh, quận 10 không lạ gì một thanh niên bán vé số ngoài ba mươi tuổi bị liệt chân, di chuyển bằng tay trên hai chiếc ghế gỗ. Ðáng chú ý ở chỗ, tháp tùng theo anh là một thanh niên trẻ hơn, cao lớn và khoẻ mạnh. Mọi việc diễn ra đã được lập trình sẵn: Người thanh niên liệt chân vào quán mời khách, anh chàng 'hộ pháp' lên xe lăn ngồi chờ!

"Có một cặp khác, bà lão 'cổ lai hy' được 'hộ tống' bởi một thanh niên khoảng hai muơi tuổi. Qui trình làm việc của cặp này được 'phô tô' giống hệt cặp kia... Rõ ràng ở đây hai anh chàng khỏe mạnh kia đang sống nhờ vào đôi chân què quặt của người thanh niên và cái dáng lom khom của bà lão bẩy muơi."  

Tưởng gì chứ "sống nhờ" vào sự khốn cùng, và nỗi bất hạnh của kẻ khác thì ở Việt Nam (bây giờ) kể-như-là-chuyện-nhỏ, và là chuyện vô cùng phổ biến. Có nhiều trường hợp "rõ ràng" hơn và tệ hại hơn nhiều nhưng Nguyễn Triều không biết; hoặc giả, tuy cũng có biết nhưng nhà báo ( quốc doanh) thấy không "tiện" nói. Xin đơn cử vài trường hợp (hơi) khó nói:

Sau chuyến đi thăm những trại cùi ở Việt Nam, linh mục Ðinh Thanh Bình đã tường thuật như sau:

"Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu... Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn trợ cấp 15 Úc Kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết.

Nhà nước chỉ giỏi cướp công, mỗi lần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di Linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu, vô túi ai không biết, vì Di Linh không hề nhận được thêm đồng cắc nào.

Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho đến mùa Tết tháng sau"

Và đây là chuyện xẩy ra ở một cái trại khác:

"Chị tôi rủ đi thăm một trường câm điếc ở Sông Bé... Chúng tôi chất thức ăn lên xe, bánh mì ổ, nồi 'la gu' (lỏng chỏng thịt bò xắt cục, khoai lang trôi trong nước súp đùng đục), thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái. Chị bảo ít vậy chứ nấu từ 3 giờ sáng, mà cũng nhiều người góp của lắm nghe mới đủ một bữa trưa cho mấy đứa nhỏ."

"Chúng tôi đem thức ăn vào nhà bếp để hâm lại. Trường có hai dẫy dành cho học sinh nam và nữ cách nhau một sân rộng và một hàng rào. Tôi được sơ hiệu phó giới thiệu với một người đàng ông có tuổi tầm vóc trung bình, ốm, nét mặt thông minh đang ngồi trong căn phòng của ban Giám hiệu:

Ðây là anh B, Hiệu Trưởng, đảng viên nhưng rất cởi mở...

"Rồi ông và sơ thay nhau nói về thành tích của trường. Năm 1886, các cha người Pháp dòng Phao-lồ thành lập, đến nay có 270 học sinh nhưng vì thiếu tiền nên nhà nước chỉ nuôi 250 đứa, mỗi tháng phát 55 ngàn cho mỗi em, thành thử nhu cầu bức thiết của trường không phải là giấy mực hay sách giáo khoa mà là thực phẩm... " (Lý Không Minh. Ngày Về Của Quỷ. Ðồng Dao, Victoria, 1977, 33).

Sao (đ... mẹ) mâm nào cũng có tụi nó ngồi sẵn ở đó - vậy cà? Kể cả những mâm ăn mà "khoai lang trôi trong nước súp đùng đục, thùng chè đậu quơ cái vá mới thấy cái" mà bao kẻ đã phải dành dụm, chắt bóp để chia sẻ với những đứa bé thơ câm điếc. Quý vị đảng viên cộng sản Việt Nam khiến tôi liên tưởng đến hai người đàn ông "hộ pháp" - luôn luôn ngồi chờ một bà lão già và một thanh niên khuyết tật đang bò lê bán vé số - ở đường Nguyễn Chí Thanh, Sài Gòn.

Hai người này đã bị ông nhà báo Nguyễn Triều gọi là những kẻ sống đời ký sinh hay chùm gửi. Lời kết án này e (hơi) vội vã, và cũng có phần (quá) khắt khe. Ðẩy xe lăn cho một người già nua hay phế tật đi bán vé số là một hình thức cộng sinh, một cách hợp tác để sinh tồn, dù cách phân công trông (có vẻ) hơi khó coi chút đỉnh.

Và nó chỉ "có vẻ" thế thôi chứ chưa hẳn đã thế. Không ai biết đích xác liên hệ giữa những người trong cuộc ra sao và chuyện họ chung sức làm ăn được chia chác thế nào? Còn cái cách kiếm tiền của Ðảng và Nhà Nước CSVN (dựa trên lòng trắc ẩn mà nhân loại dành cho những người dân kém may mắn nhất ở xứ sở này) thì rõ ràng (và hoàn toàn) không sòng phẳng.

Sơ Giám Ðốc Trung Tâm Mai Hoà, nơi chăm sóc cho những bệnh nhân liệt kháng ở Củ Chi, đã cho biết thế này: "Một triệu đô la Mỹ viện trợ khi tới tay trung tâm may ra còn một triệu đồng Việt Nam."

Một cá nhân có thể sống cuộc đời chùm gửi nhưng một dân tộc thì không. Theo đuổi chính sách sống bám là chủ trương của một chế độ bệnh hoạn; đã thế, còn huyênh hoang và tự mãn về lối sống đời ký sinh của mình thì kể như là hết thuốc.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh có thể coi như là một thí dụ tiêu biểu và điển hình cho cái loại người hết thuốc (chữa) như thế. Với cương vị Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Ðối Ngoại Quốc Hội, cuối năm 2004, bà Ninh đã được phái đến Hoa Kỳ gần một tháng.

Chuyến công du này - trên danh nghĩa - có mục đích nhằm cải thiện mối tương giao (vốn chưa bao giờ tốt đẹp) giữa Việt Nam với Mỹ, và với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở đất nước này.

Theo ngôn ngữ của báo chí của người Việt ở hải ngoại thì bà Tôn Nữ Thị Ninh có nhiệm vụ đi "giải độc". Bà Ninh đi đâu, gặp gỡ những ai, giải độc (hay rải độc) thế nào..., tôi tuyệt đối không hề bận tâm. Tôi không có rảnh rỗi đến thế.

Dù thế, tôi vẫn hết sức kinh ngạc khi đọc tường những bài phỏng vấn của báo chí ở Việt Nam dành cho bà Ninh - sau chuyến đi này. Bà Ninh giễu cợt khi kể lại những biểu tình phản đối sự hiện diện của mình ở Hoa Kỳ, và đối với cộng đồng người Việt tị nạn ở nơi đây - cái tập thể mà hằng năm vẫn chăm chỉ và đều đặn gửi về VN vài ba tỉ đô la - bà Tôn Nữ Thị Ninh đã (thỏ thẻ) bỏ nhỏ như sau, trên báo Thanh Niên:

"Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử"

Dân Việt có thành ngữ (thú vị) là "đi xa về nói khoác". Tôi cũng thuộc loại người khoác lác, cỡ một tấc đến Giời, nhất là sau khi đã uống sương sương vài ba ly Cognac, nhưng nghe qua miệng lưỡi của "Madame Ninh" thì (chợt) biết mình còn yếu cơ - thấy rõ.

Cái nhìn của tôi về thế sự, xem ra, cũng không được "bao la và trời biển" như "Bà Ðại Sứ". Tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không thấy ra "cái vị trí thuận lợi trong tiến trình lịch sử " của nhà đương cuộc Hà Nội - trong hiện cảnh.

Nếu dân làng Ba Ðình đang thực sự ở "thế thượng phong" thì quý quan chức ngoại giao như ông Nguyễn Ðình Bin, Nguyễn Phú Bình và bà Tôn Nữ Thị Ninh đâu đến nỗi phải bị gậy túa đi khắp mọi nơi. Tôi cũng có dịp đi qua nhiều xứ sở, gặp đủ kiểu và đủ cỡ hành khất nhưng chưa thấy ai đi ăn xin với giọng điệu hợm hĩnh (và ngu xuẩn) quá cỡ như vậy.

Thái độ láu cá và trơ tráo của bà Tôn Nữ Thị Ninh khiến tôi thấy nhớ (và thương) ông Hà Sĩ Phu hết sức. Loại người như bà Ninh tôi mới thấy lần đầu nhưng sĩ phu họ Hà chắc phải đối diện thường xuyên nên ông mô tả diện mạo cũng như phương thức sinh hoạt của họ vô cùng chính xác:

"Thế giới sinh vật đã cho ta những ví dụ rất rõ về vấn đề này. Con đường tiến hóa là: Sinh vật đơn bào phải đa bào hóa, trên cơ sở đa bào mới phân hóa thành những cơ quan khác nhau, giữa các cơ quan ngày càng có sự 'phân công' rành rọt nhưng ngày càng phối hợp với nhau chặt chẽ bởi sự chỉ huy càng ngày càng tập trung của hệ thần kinh. Cứ thế mà tiến hóa từ thấp lên cao, và cuối cùng xuất hiện loài người chúng ta."

"Nhưng có những sinh vật đơn bào không đi vào con đường đa bào hóa mà thích nghi bằng cách 'tu sửa vặt', 'bổ sung vặt', khiến cho bên trong cái tế bào duy nhất của nó cũng có đủ thứ như một cơ thể đa bào: có một chút tượng trưng cho 'tim', một chút tượng trưng cho 'dạ dầy', một chút 'thận', một chút 'giác quan', một chút 'thần kinh', một chút 'chân tay'...

Chúng kéo dài cái cấu trúc 'cổ lỗ' ấy suốt mấy triệu năm, và vĩnh viễn không thể 'gia nhập' vào con đường tiến hóa chung được nữa. Nếu chỉ lấy sự 'sống chết' để đo mức độ tiến hóa thì những sinh vật đơn bào ấy hẳn là 'cao' hơn con người người nhiều, vứt ra bất cứ cống rãnh nào chúng cũng sinh sôi".

" Ðiều kiện để có sự tiến hóa là phải có nguy cơ bị tiêu diệt: Nếu không tiến hóa nó sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn! Sự 'tu sửa vặt' chính là 'giải pháp' giúp cho sinh vật 'lách' qua được sự đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt, vượt qua nguy cơ bị tiêu diệt mà không cần đến con đường chính thống, nhưng chính sự 'thành công' này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa". ("Ðôi Ðiều Suy Nghĩ Của Một Công Dân". Tuyển Tập Hà Sĩ Phu. Phong Trào Nhân Quyền Cho Việt Nam Năm 2000 và Tạp Chí Thế Kỷ 21 xuất bản tháng 1 năm 96, trang 99 và 100).

Bước vào kỷ nguyên toàn cầu, trong thời kỳ đất nước đổi mới, quý vị lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng có nhiều "tu sửa vặt" và "bổ sung vặt" rất thành công. Ít nhất thì họ cũng thành công trong việc giữ cho chế độ chưa bị sụp đổ. Và chính sự "thành công" này đã tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao được nữa!

Báo chí quốc nội cũng mô tả chuyến đi của bà Tôn Nữ Thị Ninh là thành công. Nếu đúng thế - theo tôi - đây chưa hẳn đã là điều đáng mừng mà (không chừng) còn là chuyện đáng lo. Ðể cho những những sinh vật đơn bào - hay nói rõ ra là sán lãi - sống ký sinh (thành công) trong cơ thể của mình không phải là chuyện đáng lo sao?

Tưởng Năng Tiến

(Blog RFA)
Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới.

Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905).


Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”.

Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm.

Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.

Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy.

Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình”chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.

Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh.

Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”.

Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.

Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.

Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers) – vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu.

Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.

Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”.

Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả Nicholas Kriftoff. Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.

Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.

Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.

Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của.

Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”

Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.

Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối. Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.

Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.

Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước.

Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.


Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:

– Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.

– Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.

– Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.

– Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.

– Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.

– Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.

– Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.

– Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.

– Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.

– Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.…v.v….

Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào.

Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.

Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.

Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì.

Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh.

Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể.

Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.


Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.

Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.

Trong khi đó, người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng.

Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào lý thuyết và giải pháp của người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.

Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, hoàn toàn trái ngược với các nhà cách mạng cùng thời, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ.

Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.

Ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước như VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới.

Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Lòng yêu nước mù quáng biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.

Những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.

Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.

Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.

Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.

Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước.

Nguồn: TriThuc

(Báo Nhật)
17:00 Unknown
Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới.

Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905).


Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”.

Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm.

Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.

Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy.

Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình”chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.

Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh.

Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”.

Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.

Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.

Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers) – vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu.

Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.

Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”.

Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả Nicholas Kriftoff. Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.

Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.

Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.

Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của.

Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”

Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.

Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối. Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.

Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.

Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước.

Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.


Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:

– Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.

– Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.

– Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.

– Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.

– Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.

– Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.

– Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.

– Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.

– Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.

– Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.…v.v….

Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào.

Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.

Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.

Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì.

Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh.

Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể.

Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.


Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.

Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.

Trong khi đó, người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng.

Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào lý thuyết và giải pháp của người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.

Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, hoàn toàn trái ngược với các nhà cách mạng cùng thời, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ.

Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.

Ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước như VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới.

Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Lòng yêu nước mù quáng biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.

Những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.

Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.

Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.

Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.

Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước.

Nguồn: TriThuc

(Báo Nhật)
tin mới du lịch cô tô tin mới thiết bị camera cửa lưới chống muỗi cửa lưới chống muỗi tự cuốn thi công nội thất thiết kế nội thất loa đám cưới nhà nghỉ cô tô âm thanh hội trường báo online phiếu giảm giá gai goi ha noi gai goi sai gon gai goi cao cap gai goi cao cap ha noi gái gọi trần duy hưng gái gọi mỹ đình gái gọi kim liên chùa bộc danh sách gái gọi gái gọi cao cấp hà nội gái gọi sài gòn gái gọi hà nội gái gọi hà nội