Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

Several hundred of 200,000 pro-democracy student protesters face to face with policemen outside the Great Hall of the People in Tiananmen Square 22 April 1989 in Beijing as they take part in the funeral ceremony of former Chinese Communist Party leader and liberal reformer Hu Yaobang during an unauthorized demonstration to mourn his death. Hu Yaobang's death in April trigged an unprecedented wave of pro-democracy demonstrations. The April-June 1989 movement was crushed by Chinese troops in June when army tanks rolled into Tiananmen Square 04 June. (Photo credit should read CATHERINE HENRIETTE/AFP/Getty Images)
Vài trăm người trong số 200.000 sinh viên biểu tình ủng hộ dân chủ đang mặt đối mặt với lực lượng công an bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân ở Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Bài viết được biên tập và tóm tắt này, là một hồi ức về một bầu không khí cởi mở nhưng trật tự, đặc trưng cho 3 tuần trong tháng 5 năm 1989 khi thủ đô Bắc Kinh được hưởng một thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi mà không có sự kiểm soát của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tác giả Chen Gang, một sinh viên tại thời điểm xảy ra sự kiện mang tính biểu tượng này, nhớ lại trải nghiệm của cá nhân mình đối với các cuộc biểu tình của sinh viên với sự tham gia của hàng triệu người.

Có những lo ngại rằng, [nếu] loại bỏ sự thống trị của nhà nước một đảng, Trung Quốc sẽ bị hỗn loạn lớn. Thực ra mà nói, chúng tôi ở Bắc Kinh đã được tận hưởng khoảng chừng 20 ngày hòa bình và trật tự, giữa mùa xuân và mùa hè năm 1989 – mà không có sự kiểm soát và kìm kẹp của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Bắt đầu từ ngày 13 tháng 5 năm đó, sinh viên từ nhiều trường đại học của Thủ đô Trung Quốc đã đổ xô đến Quảng trường Thiên An Môn tham gia vào các cuộc biểu tình và tuyệt thực để ủng hộ nhân quyền và phản đối sự tham nhũng của các quan chức ĐCSTQ. Những cư dân bình thường cũng như những sinh viên đã tham gia vào các sự kiện một cách tự phát, và ở giai đoạn đỉnh điểm đã có tới 3 triệu người trên khắp Bắc Kinh [tham gia].

Kể từ ngày này, ĐCSTQ đã bắt đầu mất sự kiểm soát, và tình trạng vô chính phủ dường như thoáng xuất hiện ở thủ đô.
Trật tự tự phát tại Thiên An Môn

Vào thời điểm đó, tôi là một sinh viên mới vào đại học. Vào ngày 16 tháng 5, tôi đã đi cùng với những giáo sư và các bạn sinh viên đến Thiên An Môn để ủng hộ cho những người tuyệt thực. Hàng ngày, hàng ngàn, hàng ngàn người dân Bắc Kinh thuộc các tầng lớp khác nhau đã tụ tập lại ở quảng trường Thiên An Môn hoặc tham gia các cuộc diễu hành xung quanh khu vực.

Cảnh sát – những người quản lý giao thông, sỹ quan công an và quân cảnh – tất cả đã rời khỏi vị trí của mình tại Thiên An Môn và trong khu vực lân cận nói chung. Nhưng không có sự hỗn loạn nào cả. Thay vào đó, những sinh viên chỉ đơn giản là chiếm đóng các vị trí trống để duy trì trật tự. Hàng ngày tôi đã ở quảng trường và tôi không thấy và cũng không nghe nói về bất kỳ hành vi trộm cắp hoặc bạo lực nào.

Để hỗ trợ cho các sinh viên, mọi người từ khắp thủ đô đã gửi rất nhiều loại thức ăn, đồ uống và những hàng hoá khác đến quảng trường. Đồ tiếp tế được chất hàng đống cao như núi. Ngay lập tức, chúng tôi bắt đầu một nỗ lực chân thành để chia sẻ trách nhiệm phân phối. Là những người đến đầu tiên, chúng tôi đã không lạm dụng đặc quyền của mình. Thay vào đó, chúng tôi đã đưa thực phẩm và hàng hóa tiếp tế cho những người khác, trước khi quan tâm đến nhu cầu của chính bản thân mình. Và những người đến [biểu tình] chỉ nhận lấy những gì họ cần.

Hundreds of thousands of Chinese gathering in Tiananmen Square demanding democracy despite martial law in Beijing on June 2, 1989. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Hàng trăm ngàn người Trung Quốc tụ tập tại Quảng trường Thiên An Môn để yêu cầu dân chủ, bất chấp tình trạng thiết quân luật ở Bắc Kinh vào ngày 2 tháng 6, 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Đó là một khoảnh khắc đầy cảm xúc: Tôi chưa bao giờ ngờ được rằng khẩu hiệu cộng sản “Hưởng theo nhu cầu” đã được thực hiện đầu tiên tại quảng trường Thiên An Môn – mà không có tổ chức Đảng.

Lòng yêu nước của phong trào sinh viên là một động lực rất lớn. Mọi người đều dẹp sự ích kỷ của mình sang một bên, và đặt trái tim của mình cho tương lai của đất nước và của dân tộc chúng tôi. Trong số các sinh viên, đã không thiếu những cô gái xinh đẹp từ khắp nơi trên đất nước. Tôi còn rất trẻ và chưa có bạn gái, và trên thực tế đã có rất nhiều cơ hội cho tôi để tìm một bạn gái trẻ có cùng một khuynh hướng, tính cách ở quảng trường. Tuy nhiên, vì sợ báng bổ quyết tâm yêu nước vĩ đại này, tôi đã không dám mủi lòng trước bất kỳ ham muốn cá nhân nào. Tôi không bao giờ hỏi tên hay quê quán của những cô gái xinh đẹp đứng cạnh tôi, sát bên nhau.
Không có Đảng

Vào ngày 20 tháng 5, nhận thấy quyền lực và đặc quyền cá nhân bị trượt khỏi bàn tay mình, giới lãnh đạo ĐCSTQ đã tuyên bố thiết quân luật. Hàng trăm ngàn binh sĩ Quân Giải phóng Nhân dân đã được triển khai bên ngoài Bắc Kinh, và chuẩn bị sẵn sàng để đàn áp sinh viên và “lập lại trật tự bình thường” bất chấp thực tế là trật tự chưa bao giờ bị mất và hàng triệu cư dân Bắc Kinh đang làm việc và sinh sống trong hòa bình.

Và đó là vì sự bất phục tùng [tình trạng thiết quân luật một cách] ôn hòa mà hàng trăm ngàn người [biểu tình] đã ngăn chặn đội Quân Giải phóng Nhân dân [PLA] tiến vào thủ đô từ mọi hướng. Chính quyền Bắc Kinh gần như đã bị tê liệt và mất sự kiểm soát của Đảng. Các học viện, viện nghiên cứu của thủ đô đã tự thành lập các hiệp hội công nhân và sinh viên tự trị, tất cả đều không có các lãnh đạo ĐCSTQ.

Beijing magistrates in their court uniforms join workers demonstrating in Beijing streets 18 May 1989, in support of student hunger strikers gathered at Tiananmen Square. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Các thẩm phán Bắc Kinh trong đồng phục tòa án gia nhập những người lao động biểu tình trên các đường phố Bắc Kinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1989, để ủng hộ cho những sinh viên tuyệt thực, đang tụ tập tại Quảng trường Thiên An Môn. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Những binh lính được trang bị đầy đủ vũ trang, đến trên những chiếc xe chiến đấu, đã rất bối rối khi họ nhìn thấy [hiện trạng] thủ đô [Bắc Kinh] như thế nào. Ngày 21 tháng 5, tôi đã đi đến phố Cổ Thành tại quận Thạch Cảnh Sơn, ở gần nhà mình. Tôi chỉ thấy có một hàng dài các xe quân sự, nằm uốn khúc qua các đường phố, bị chặn lại bởi một hàng rào những cư dân.

Các binh lính đã bị lừa bởi các nhà chức trách, những người tuyên bố rằng “có tình trạng hỗn loạn ở Bắc Kinh”, và rằng trật tự cần phải được khôi phục. Người dân địa phương vây xung quanh những người lính để nói với họ về tình huống thật sự, rằng sinh viên đang phản đối chống lại tham nhũng, và rằng Bắc Kinh vẫn trong trật tự tốt, và rằng PLA không cần thiết phải khôi phục lại bất cứ điều gì. Yêu cầu duy nhất cho những sinh viên và công dân yêu nước, là không được đổ máu.

Ở khắp mọi nơi người dân thủ đô đã sử dụng cơ thể của mình để ngăn chặn các xe quân đội. Những lời nói của một phụ nữ trung niên luôn vang vọng trong tâm trí tôi: “Tại sao Liên Hiệp Quốc không gửi lực lượng gìn giữ hòa bình đến để bảo vệ chúng ta ở đây tại Bắc Kinh?”

Pro-democracy demonstrators applaud students from Beijing University standing on People's Liberation Army armored personnel carriers on 21 May 1989 in Beijing, trying to convince the soldiers to defy the martial law which was proclaimed the previous day. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Những người biểu tình ủng hộ dân chủ hoan nghênh các sinh viên đến từ Đại học Bắc Kinh, đang đứng trên những chiếc xe tăng chở lính của PLA ở Bắc Kinh vào ngày 21 tháng 5 năm 1989. Họ đang cố gắng thuyết phục những người lính không tuân theo tình trạng thiết quân luật đã được tuyên bố ngày hôm trước. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Không có công an, cảnh sát quân sự hoặc binh lính chiếm đóng Bắc Kinh hoặc vùng ngoại ô của Bắc Kinh. Thủ đô đơn giản là không bị ĐCSTQ kiểm soát. Không muốn tạo cho chính quyền bất kỳ nguyên cớ nào để đàn áp các cuộc biểu tình, các sinh viên đã hợp tác để thiết lập một chế độ luật lệ và trật tự xã hội quá kỹ càng, bắt đầu với việc điều khiển giao thông.

Tại thời điểm đó, không có sự “nổi loạn”, và thậm chí cả những tên trộm cũng đã từ bỏ việc trộm cắp. Thống kê của công an Bắc Kinh cho thấy có sự giảm đi trông thấy của tất cả các loại tội phạm trong suốt những sự kiện này. Tai nạn giao thông chưa bao giờ đạt được mức thấp như lúc đó. Hoạt động thương mại được liên tục, không bị gián đoạn.

Pro-democracy demonstrators surround a truck carrying People's Liberation Army soldiers 20 May 1989 in Beijing on their way to Tiananmen Square 20 May 1989. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Những người biểu tình ủng hộ dân chủ bao quanh một chiếc xe tải chở binh sĩ Quân Giải phóng nhân dân trên đường đến Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 20 tháng 5 năm 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Những hy vọng chung

Thông thường, dưới sự cai trị của Đảng, người dân cảm thấy đầy phẫn uất, oán giận, có thể ‘bùng cháy lên’ chỉ với một tia lửa nhỏ nhất. Trên đường phố, chỉ cần hơi xung đột, chẳng hạn như vì một cú va đụng, sẽ dẫn đến kết quả là một cuộc đấu khẩu. Nhưng trong thời gian các cuộc biểu tình, những ngày hạnh phúc quý giá này sau hàng thập kỷ chịu sự đàn áp của Đảng, người dân Bắc Kinh đã tươi cười trong sự hân hoan.

Các sự kiện của giai đoạn này là một thời gian gắn kết cho các cư dân của Bắc Kinh và sinh viên. Nếu bạn đang trên đường đến Thiên An Môn hoặc chặn các xe quân sự đang cố gắng tiến vào thành phố, các lái xe sẽ đưa bạn đến quảng trường miễn phí. Mọi người cảm thấy gần gũi và thân thiện với bất cứ ai mà họ gặp. Ngay cả người hoàn toàn xa lạ cũng đã trở thành anh chị em, với hy vọng chung về [một nước] Trung Quốc không có Đảng Cộng sản.

Vào một đêm nọ, khi tôi đang vội vã về nhà từ quảng trường Thiên An Môn, trên chiếc xe đạp của tôi, tôi đã va vào một người đi xe đạp khác. Trước khi tôi có thể nói một lời, anh ta đã nói: “Đừng lo! Hiểu biết lẫn nhau muôn năm!”. Anh ta đã vẫy tay và đi khỏi.

Trong thời gian các cuộc biểu tình Thiên An Môn tháng 5 đó, tất cả mọi người đều có sự hiểu biết lẫn nhau này: chúng ta nên khẩn chương tiến về phía trước như là một tập thể, yêu cầu ĐCSTQ hoàn toàn biến khỏi sân khấu [chính trị] Trung Quốc. Lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ, các phương tiện truyền thông đã nói lên sự thật, và không còn kiểm duyệt nội dung của mình để làm đẹp lòng Đảng.
Từ bỏ sự tàn bạo của cộng sản

Từ tối ngày 3 tháng 6 thông qua suốt đêm cho đến ngày 4 tháng 6, xe tăng và binh lính trang bị súng trường tấn công (Assault Rifles) đã thảm sát đẫm máu trên các con đường dẫn đến Thiên An Môn. Quá sốc và choáng váng, tôi đã đến Bệnh viện Đa khoa Đường sắt Bắc Kinh cùng với các xe cứu thương, để sơ cấp cứu ban đầu cho các sinh viên và cư dân bị thương bởi bị trúng đạn của Quân Giải phóng Nhân dân. Cảnh tượng trông giống như một bệnh viện chiến trường tạm thời, với một hệ thống phân loại tại chỗ để chữa trị tùy theo tình trạng nguy cấp.

Tại nút giao cắt giao thông Ngũ Khoả Tùng, tôi nhìn thấy thân thể của các sinh viên đã bị nghiền nát bởi xích xe tăng, một lớp mỏng thịt nham nhở và xương đã bị dính chặt xuống đất.

Kết quả của vụ thảm sát, hàng chục sinh viên cùng ngành học với tôi ở trường Đại học Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh, đã bị sát hại bởi những binh lính dùng súng trường tấn công. Những nòng súng trường của ĐCSTQ đã phá vỡ sự hài hòa ngắn ngủi của thủ đô Bắc Kinh [trong những tuần đã qua].

People's Liberation Army tanks guard the strategic Chang'an Avenue leading to Tiananmen Square on 06 June 1989. (Manuel Ceneta/AFP/Getty Images)
Xe tăng Quân giải phóng nhân dân bảo vệ Đại lộ Trường An chiến lược dẫn đến Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 6 tháng 6 năm 1989. (Manuel Ceneta / AFP / Getty Images)
Hàng chục triệu người Trung Quốc đã bị thiệt mạng qua các phong trào chính trị của ĐCSTQ. Qua mỗi lần, những người Trung Quốc từ bi đều hy vọng đó là lần cuối cùng. Và lần nào cũng vậy, ĐCSTQ đều đáp lại những hy vọng của người dân Trung Quốc với dao phay của những tên đồ tể và máu tươi.

ĐCSTQ nói dối về và bôi nhọ những sinh viên và cư dân Bắc Kinh yêu nước trong khi phủ nhận tội ác của chính mình. Ngày nay, ĐCSTQ vẫn tiếp tục thu hoạch nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, một môn tu luyện tinh thần [truyền thống của Trung Quốc].

Niềm tin và các giá trị truyền thống đã bị phá hoại bởi một Đảng hiểm độc. Các tiêu chuẩn đạo đức cổ xưa và tập tục xã hội đã bị xóa bỏ bằng vũ lực. Quan hệ hài hòa giữa các cá nhân bị bóp méo và biến thành lòng căm thù, đẩy người dân Trung Quốc vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, trong đó mọi người dân [Trung Quốc] đều là nạn nhân.

Tôi tin tưởng rằng rất nhiều người dân Bắc Kinh và những người là sinh viên vào thời điểm đó, sau này vẫn có những kỷ niệm về những ngày hân hoan trong năm 1989, được khắc ghi trong trái tim họ. Khi mà người dân Trung Quốc, với số lượng ngày càng lớn hơn, từ chối Đảng cộng sản – dù là [trong tư tưởng] cá nhân hay trong các hành động của mình – họ đang càng ngày có khả năng hình dung, trước mắt mình, về một nước Trung Quốc hòa bình mà không có ĐCSTQ, và sự hình dung này ngày càng gần hơn và gần hơn với thực tế.

Tác giả: Chen Gang

Dịch giả: Phạm Duy

(Việt Đại kỷ nguyên)
04:00 Unknown
Several hundred of 200,000 pro-democracy student protesters face to face with policemen outside the Great Hall of the People in Tiananmen Square 22 April 1989 in Beijing as they take part in the funeral ceremony of former Chinese Communist Party leader and liberal reformer Hu Yaobang during an unauthorized demonstration to mourn his death. Hu Yaobang's death in April trigged an unprecedented wave of pro-democracy demonstrations. The April-June 1989 movement was crushed by Chinese troops in June when army tanks rolled into Tiananmen Square 04 June. (Photo credit should read CATHERINE HENRIETTE/AFP/Getty Images)
Vài trăm người trong số 200.000 sinh viên biểu tình ủng hộ dân chủ đang mặt đối mặt với lực lượng công an bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân ở Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Bài viết được biên tập và tóm tắt này, là một hồi ức về một bầu không khí cởi mở nhưng trật tự, đặc trưng cho 3 tuần trong tháng 5 năm 1989 khi thủ đô Bắc Kinh được hưởng một thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi mà không có sự kiểm soát của Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tác giả Chen Gang, một sinh viên tại thời điểm xảy ra sự kiện mang tính biểu tượng này, nhớ lại trải nghiệm của cá nhân mình đối với các cuộc biểu tình của sinh viên với sự tham gia của hàng triệu người.

Có những lo ngại rằng, [nếu] loại bỏ sự thống trị của nhà nước một đảng, Trung Quốc sẽ bị hỗn loạn lớn. Thực ra mà nói, chúng tôi ở Bắc Kinh đã được tận hưởng khoảng chừng 20 ngày hòa bình và trật tự, giữa mùa xuân và mùa hè năm 1989 – mà không có sự kiểm soát và kìm kẹp của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Bắt đầu từ ngày 13 tháng 5 năm đó, sinh viên từ nhiều trường đại học của Thủ đô Trung Quốc đã đổ xô đến Quảng trường Thiên An Môn tham gia vào các cuộc biểu tình và tuyệt thực để ủng hộ nhân quyền và phản đối sự tham nhũng của các quan chức ĐCSTQ. Những cư dân bình thường cũng như những sinh viên đã tham gia vào các sự kiện một cách tự phát, và ở giai đoạn đỉnh điểm đã có tới 3 triệu người trên khắp Bắc Kinh [tham gia].

Kể từ ngày này, ĐCSTQ đã bắt đầu mất sự kiểm soát, và tình trạng vô chính phủ dường như thoáng xuất hiện ở thủ đô.
Trật tự tự phát tại Thiên An Môn

Vào thời điểm đó, tôi là một sinh viên mới vào đại học. Vào ngày 16 tháng 5, tôi đã đi cùng với những giáo sư và các bạn sinh viên đến Thiên An Môn để ủng hộ cho những người tuyệt thực. Hàng ngày, hàng ngàn, hàng ngàn người dân Bắc Kinh thuộc các tầng lớp khác nhau đã tụ tập lại ở quảng trường Thiên An Môn hoặc tham gia các cuộc diễu hành xung quanh khu vực.

Cảnh sát – những người quản lý giao thông, sỹ quan công an và quân cảnh – tất cả đã rời khỏi vị trí của mình tại Thiên An Môn và trong khu vực lân cận nói chung. Nhưng không có sự hỗn loạn nào cả. Thay vào đó, những sinh viên chỉ đơn giản là chiếm đóng các vị trí trống để duy trì trật tự. Hàng ngày tôi đã ở quảng trường và tôi không thấy và cũng không nghe nói về bất kỳ hành vi trộm cắp hoặc bạo lực nào.

Để hỗ trợ cho các sinh viên, mọi người từ khắp thủ đô đã gửi rất nhiều loại thức ăn, đồ uống và những hàng hoá khác đến quảng trường. Đồ tiếp tế được chất hàng đống cao như núi. Ngay lập tức, chúng tôi bắt đầu một nỗ lực chân thành để chia sẻ trách nhiệm phân phối. Là những người đến đầu tiên, chúng tôi đã không lạm dụng đặc quyền của mình. Thay vào đó, chúng tôi đã đưa thực phẩm và hàng hóa tiếp tế cho những người khác, trước khi quan tâm đến nhu cầu của chính bản thân mình. Và những người đến [biểu tình] chỉ nhận lấy những gì họ cần.

Hundreds of thousands of Chinese gathering in Tiananmen Square demanding democracy despite martial law in Beijing on June 2, 1989. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Hàng trăm ngàn người Trung Quốc tụ tập tại Quảng trường Thiên An Môn để yêu cầu dân chủ, bất chấp tình trạng thiết quân luật ở Bắc Kinh vào ngày 2 tháng 6, 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Đó là một khoảnh khắc đầy cảm xúc: Tôi chưa bao giờ ngờ được rằng khẩu hiệu cộng sản “Hưởng theo nhu cầu” đã được thực hiện đầu tiên tại quảng trường Thiên An Môn – mà không có tổ chức Đảng.

Lòng yêu nước của phong trào sinh viên là một động lực rất lớn. Mọi người đều dẹp sự ích kỷ của mình sang một bên, và đặt trái tim của mình cho tương lai của đất nước và của dân tộc chúng tôi. Trong số các sinh viên, đã không thiếu những cô gái xinh đẹp từ khắp nơi trên đất nước. Tôi còn rất trẻ và chưa có bạn gái, và trên thực tế đã có rất nhiều cơ hội cho tôi để tìm một bạn gái trẻ có cùng một khuynh hướng, tính cách ở quảng trường. Tuy nhiên, vì sợ báng bổ quyết tâm yêu nước vĩ đại này, tôi đã không dám mủi lòng trước bất kỳ ham muốn cá nhân nào. Tôi không bao giờ hỏi tên hay quê quán của những cô gái xinh đẹp đứng cạnh tôi, sát bên nhau.
Không có Đảng

Vào ngày 20 tháng 5, nhận thấy quyền lực và đặc quyền cá nhân bị trượt khỏi bàn tay mình, giới lãnh đạo ĐCSTQ đã tuyên bố thiết quân luật. Hàng trăm ngàn binh sĩ Quân Giải phóng Nhân dân đã được triển khai bên ngoài Bắc Kinh, và chuẩn bị sẵn sàng để đàn áp sinh viên và “lập lại trật tự bình thường” bất chấp thực tế là trật tự chưa bao giờ bị mất và hàng triệu cư dân Bắc Kinh đang làm việc và sinh sống trong hòa bình.

Và đó là vì sự bất phục tùng [tình trạng thiết quân luật một cách] ôn hòa mà hàng trăm ngàn người [biểu tình] đã ngăn chặn đội Quân Giải phóng Nhân dân [PLA] tiến vào thủ đô từ mọi hướng. Chính quyền Bắc Kinh gần như đã bị tê liệt và mất sự kiểm soát của Đảng. Các học viện, viện nghiên cứu của thủ đô đã tự thành lập các hiệp hội công nhân và sinh viên tự trị, tất cả đều không có các lãnh đạo ĐCSTQ.

Beijing magistrates in their court uniforms join workers demonstrating in Beijing streets 18 May 1989, in support of student hunger strikers gathered at Tiananmen Square. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Các thẩm phán Bắc Kinh trong đồng phục tòa án gia nhập những người lao động biểu tình trên các đường phố Bắc Kinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1989, để ủng hộ cho những sinh viên tuyệt thực, đang tụ tập tại Quảng trường Thiên An Môn. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Những binh lính được trang bị đầy đủ vũ trang, đến trên những chiếc xe chiến đấu, đã rất bối rối khi họ nhìn thấy [hiện trạng] thủ đô [Bắc Kinh] như thế nào. Ngày 21 tháng 5, tôi đã đi đến phố Cổ Thành tại quận Thạch Cảnh Sơn, ở gần nhà mình. Tôi chỉ thấy có một hàng dài các xe quân sự, nằm uốn khúc qua các đường phố, bị chặn lại bởi một hàng rào những cư dân.

Các binh lính đã bị lừa bởi các nhà chức trách, những người tuyên bố rằng “có tình trạng hỗn loạn ở Bắc Kinh”, và rằng trật tự cần phải được khôi phục. Người dân địa phương vây xung quanh những người lính để nói với họ về tình huống thật sự, rằng sinh viên đang phản đối chống lại tham nhũng, và rằng Bắc Kinh vẫn trong trật tự tốt, và rằng PLA không cần thiết phải khôi phục lại bất cứ điều gì. Yêu cầu duy nhất cho những sinh viên và công dân yêu nước, là không được đổ máu.

Ở khắp mọi nơi người dân thủ đô đã sử dụng cơ thể của mình để ngăn chặn các xe quân đội. Những lời nói của một phụ nữ trung niên luôn vang vọng trong tâm trí tôi: “Tại sao Liên Hiệp Quốc không gửi lực lượng gìn giữ hòa bình đến để bảo vệ chúng ta ở đây tại Bắc Kinh?”

Pro-democracy demonstrators applaud students from Beijing University standing on People's Liberation Army armored personnel carriers on 21 May 1989 in Beijing, trying to convince the soldiers to defy the martial law which was proclaimed the previous day. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Những người biểu tình ủng hộ dân chủ hoan nghênh các sinh viên đến từ Đại học Bắc Kinh, đang đứng trên những chiếc xe tăng chở lính của PLA ở Bắc Kinh vào ngày 21 tháng 5 năm 1989. Họ đang cố gắng thuyết phục những người lính không tuân theo tình trạng thiết quân luật đã được tuyên bố ngày hôm trước. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Không có công an, cảnh sát quân sự hoặc binh lính chiếm đóng Bắc Kinh hoặc vùng ngoại ô của Bắc Kinh. Thủ đô đơn giản là không bị ĐCSTQ kiểm soát. Không muốn tạo cho chính quyền bất kỳ nguyên cớ nào để đàn áp các cuộc biểu tình, các sinh viên đã hợp tác để thiết lập một chế độ luật lệ và trật tự xã hội quá kỹ càng, bắt đầu với việc điều khiển giao thông.

Tại thời điểm đó, không có sự “nổi loạn”, và thậm chí cả những tên trộm cũng đã từ bỏ việc trộm cắp. Thống kê của công an Bắc Kinh cho thấy có sự giảm đi trông thấy của tất cả các loại tội phạm trong suốt những sự kiện này. Tai nạn giao thông chưa bao giờ đạt được mức thấp như lúc đó. Hoạt động thương mại được liên tục, không bị gián đoạn.

Pro-democracy demonstrators surround a truck carrying People's Liberation Army soldiers 20 May 1989 in Beijing on their way to Tiananmen Square 20 May 1989. (Catherine Henriette/AFP/Getty Images)
Những người biểu tình ủng hộ dân chủ bao quanh một chiếc xe tải chở binh sĩ Quân Giải phóng nhân dân trên đường đến Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 20 tháng 5 năm 1989. (Catherine Henriette / AFP / Getty Images)
Những hy vọng chung

Thông thường, dưới sự cai trị của Đảng, người dân cảm thấy đầy phẫn uất, oán giận, có thể ‘bùng cháy lên’ chỉ với một tia lửa nhỏ nhất. Trên đường phố, chỉ cần hơi xung đột, chẳng hạn như vì một cú va đụng, sẽ dẫn đến kết quả là một cuộc đấu khẩu. Nhưng trong thời gian các cuộc biểu tình, những ngày hạnh phúc quý giá này sau hàng thập kỷ chịu sự đàn áp của Đảng, người dân Bắc Kinh đã tươi cười trong sự hân hoan.

Các sự kiện của giai đoạn này là một thời gian gắn kết cho các cư dân của Bắc Kinh và sinh viên. Nếu bạn đang trên đường đến Thiên An Môn hoặc chặn các xe quân sự đang cố gắng tiến vào thành phố, các lái xe sẽ đưa bạn đến quảng trường miễn phí. Mọi người cảm thấy gần gũi và thân thiện với bất cứ ai mà họ gặp. Ngay cả người hoàn toàn xa lạ cũng đã trở thành anh chị em, với hy vọng chung về [một nước] Trung Quốc không có Đảng Cộng sản.

Vào một đêm nọ, khi tôi đang vội vã về nhà từ quảng trường Thiên An Môn, trên chiếc xe đạp của tôi, tôi đã va vào một người đi xe đạp khác. Trước khi tôi có thể nói một lời, anh ta đã nói: “Đừng lo! Hiểu biết lẫn nhau muôn năm!”. Anh ta đã vẫy tay và đi khỏi.

Trong thời gian các cuộc biểu tình Thiên An Môn tháng 5 đó, tất cả mọi người đều có sự hiểu biết lẫn nhau này: chúng ta nên khẩn chương tiến về phía trước như là một tập thể, yêu cầu ĐCSTQ hoàn toàn biến khỏi sân khấu [chính trị] Trung Quốc. Lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ, các phương tiện truyền thông đã nói lên sự thật, và không còn kiểm duyệt nội dung của mình để làm đẹp lòng Đảng.
Từ bỏ sự tàn bạo của cộng sản

Từ tối ngày 3 tháng 6 thông qua suốt đêm cho đến ngày 4 tháng 6, xe tăng và binh lính trang bị súng trường tấn công (Assault Rifles) đã thảm sát đẫm máu trên các con đường dẫn đến Thiên An Môn. Quá sốc và choáng váng, tôi đã đến Bệnh viện Đa khoa Đường sắt Bắc Kinh cùng với các xe cứu thương, để sơ cấp cứu ban đầu cho các sinh viên và cư dân bị thương bởi bị trúng đạn của Quân Giải phóng Nhân dân. Cảnh tượng trông giống như một bệnh viện chiến trường tạm thời, với một hệ thống phân loại tại chỗ để chữa trị tùy theo tình trạng nguy cấp.

Tại nút giao cắt giao thông Ngũ Khoả Tùng, tôi nhìn thấy thân thể của các sinh viên đã bị nghiền nát bởi xích xe tăng, một lớp mỏng thịt nham nhở và xương đã bị dính chặt xuống đất.

Kết quả của vụ thảm sát, hàng chục sinh viên cùng ngành học với tôi ở trường Đại học Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh, đã bị sát hại bởi những binh lính dùng súng trường tấn công. Những nòng súng trường của ĐCSTQ đã phá vỡ sự hài hòa ngắn ngủi của thủ đô Bắc Kinh [trong những tuần đã qua].

People's Liberation Army tanks guard the strategic Chang'an Avenue leading to Tiananmen Square on 06 June 1989. (Manuel Ceneta/AFP/Getty Images)
Xe tăng Quân giải phóng nhân dân bảo vệ Đại lộ Trường An chiến lược dẫn đến Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh vào ngày 6 tháng 6 năm 1989. (Manuel Ceneta / AFP / Getty Images)
Hàng chục triệu người Trung Quốc đã bị thiệt mạng qua các phong trào chính trị của ĐCSTQ. Qua mỗi lần, những người Trung Quốc từ bi đều hy vọng đó là lần cuối cùng. Và lần nào cũng vậy, ĐCSTQ đều đáp lại những hy vọng của người dân Trung Quốc với dao phay của những tên đồ tể và máu tươi.

ĐCSTQ nói dối về và bôi nhọ những sinh viên và cư dân Bắc Kinh yêu nước trong khi phủ nhận tội ác của chính mình. Ngày nay, ĐCSTQ vẫn tiếp tục thu hoạch nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, một môn tu luyện tinh thần [truyền thống của Trung Quốc].

Niềm tin và các giá trị truyền thống đã bị phá hoại bởi một Đảng hiểm độc. Các tiêu chuẩn đạo đức cổ xưa và tập tục xã hội đã bị xóa bỏ bằng vũ lực. Quan hệ hài hòa giữa các cá nhân bị bóp méo và biến thành lòng căm thù, đẩy người dân Trung Quốc vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, trong đó mọi người dân [Trung Quốc] đều là nạn nhân.

Tôi tin tưởng rằng rất nhiều người dân Bắc Kinh và những người là sinh viên vào thời điểm đó, sau này vẫn có những kỷ niệm về những ngày hân hoan trong năm 1989, được khắc ghi trong trái tim họ. Khi mà người dân Trung Quốc, với số lượng ngày càng lớn hơn, từ chối Đảng cộng sản – dù là [trong tư tưởng] cá nhân hay trong các hành động của mình – họ đang càng ngày có khả năng hình dung, trước mắt mình, về một nước Trung Quốc hòa bình mà không có ĐCSTQ, và sự hình dung này ngày càng gần hơn và gần hơn với thực tế.

Tác giả: Chen Gang

Dịch giả: Phạm Duy

(Việt Đại kỷ nguyên)

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2016

Nhân ngày ChiếnThắng Phát Xít Đức 9/5/1945, xin được nhắc lại một trân đánh lớn nhất lịch sử chiến tranh, giữa quân đội Đức Quốc Xã và quận đội Liên Xô trong CTTG 2 với thất bại chưa từng có của quân đội Liên Xô nên sử lề phải của ta hồi nào đến giờ vẫn che dấu và bưng bít...

Hitler và đoàn tùy tùng
Từ ngày 22/6/1941 đến cuối tháng 9/1941. Một cuộc thất trận lớn nhất và toàn diện nhất của quân đội Liên Xô trước quân đội Đức Quốc Xã vào thời điểm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức. Đây có thể nói là một cuộc thua trận có một không hai, lớn nhất trong lịch sử trong mọi thời kỳ. Với chiến trường rộng lớn, quân đội hai bên tham gia đông, thảm bại lớn nhất của quân đội LX, quân lực LX bị tiêu diệt nhiều nhất ( 600.000 ngườ), bị bắt nhiều tù binh nhiều nhất (gần 1 triệu tù binh), một vùng đất rộng mênh mông hầu như toàn bộ nước Ucraina ngày nay, cùng với Thủ Phủ Kiép (thủ đô Kiep bây giờ) rơi vào tay người Đức. Và đây cũng là thắng lợi vĩ đại nhất của quân đội Đức Quốc Xã...

Như các bạn đều biết trong thế chiến 2, Đức bất ngờ mở chiến dịch Barbarosa, tấn công vào Liên Xô ngày 22/6/1941. Đây cũng là một chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử hơn 5,5 triệu binh lính tấn công làm 3 mũi (Bắc, Trung Tâm và Nam) trên một diện tích rộng hàng ngày cây số. Và mũi thứ 3, Mũi Nam sẽ tấn công vào Ucraina, lúc này đang nằm trong LX. Mục tiêu chiếm thủ phủ Kiep.

Người Đức sử dụng chiến thuật blitzkrieg (chiến thuật tấn công chớp nhoáng) với lực lượng xe tăng làm nòng cốt để thọc sâu, hoặc hai mũi gọng kìm để hợp vây bức hàng đối phương. Chiến thuật này đã mang lại chiến thắng nhanh chóng ở các trận chiến với Ba Lan và Pháp và gây nên nỗi kinh hoàng cho cả thế giới lúc đó. Chỉ trừ Xtalin và những người cộng sản Liên Xô.

Để phòng thủ, Liên Xô đã phạm sai lầm đầu tiên khi đưa gần như tất cả các lực lượng manh nhất của họ lên tuyến đầu giáp với kẻ thù. Nhưng với chiến thuật xe tăng vận động chiến thì đó sẽ là miếng mồi ngon cho các sư đoàn xe tăng Đức hợp vây. Ngoài ra sự căm thù Xô Viết ở những vùng bắt đầu trận đánh là một phần xứ Ba Lan mà LX mới sát nhập, và toàn bộ xứ Ucraina. Cùng với việc đây hoàn toàn là vùng đồng bằng thảo nguyên với hê thống đường xá giao thông rất tốt thuận tiện cho các đơn vị xe tăng Đức hoạt động.

Sai lầm tiếp theo là bắt đầu cuộc chiến 1941, thay vì đối đầu với sức quá mạnh của đối phương, Liên Xô nên học bài học của chính nước Nga năm 1812. Năm đó, quân Pháp của Napoleon tấn công nước Nga Sa Hoàng, quân đội Nga theo lệnh tướng chột mắt Cutudop cứ dần dần rút lui tránh giao chiến với đại quân hùng mạnh của Pháp. Chỉ đến khi Sa hoàng bắt buộc thì Cutuzop phải buộc giao chiến và đã thảm bại ở Brodino. Sau đó quân Nga lại tiếp tục rút lui, bỏ cả thành phố Matscova lại cho quân Pháp. Với một sự tiếp viện dài lê thê hàng ngàn km từ Pháp, lại bị du kích quấy rối nên dần dần quân Pháp đại bại. Hoàng đế Napoleon phải bỏ đoàn quân chạy về Pháp, và nước Pháp thất trận từ đây. Napoleon bị đi đầy lần thứ nhất.

Nhưng năm 1941 này với danh hiệu đạo quân ưu tú, Hồng quân LX đã chấp nhận đối đầu với lực lượng Đức QX. Kết quả là LX đã bị một loạt trận đánh tao ngộ chiến, bao vây, bức hàng cùng một loạt thất bại thảm hại, với mỗi trận bị tiêu diệt, bị bắt sống hàng vạn tù binh (Tarnopon, Urman...) Cả ba mũi tấn công chính đều thu được thành công vang dội. Mũi phía Bắc quân Đức đã đến Lênilgrat. Mũi Trung Tâm đã đến cửa ngõ Matscva. Ở mũi Nam, các sư đoàn Đức ào ào xông vào vùng Ucraina rộng lớn như đi vào chỗ không người.

Đến đây thì cũng chưa phải thảm họa cuối cùng. Với một thế trận khi mũi quân Trung tâm của Đức đang tiến đánh Moskva nhanh như chẻ tre, tức là sườn phải của bị đe dọa như thế, với thế trận bị cụm quân Nam đánh như thế thì chỉ có rút lui thật nhanh mới tránh thảm họa. Nhưng mặc cho sự van nài của thượng tướng M. P. Kirponos, tư lệnh phương diện quân yêu cầu xin rút lui, Tổng tư lệnh Xtalin, cùng với đại tướng khét tiếng nướng quân Giucốp (giống bác Giáp nhà ta) lại chủ quan, cương quyết chống cự đến cùng.

Đến đây thì một sự kiện hoàn toàn mới. Mà giới viết sử chiến tranh thế giới gọi là :"Cú Ngoặt Xuống Phía Nam" nổi tiếng của A.Hitler. Quốc Trưởng Đức cũng đã bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn của các tướng tá, mà quyết định lấy bớt lực lượng mạnh nhất của mũi Trung Tâm là tập đoàn quân xe tăng 2 hùng mạnh của tướng tăng khét tiếng Guderian, cùng các lực lượng phụ thuộc mở một mũi đánh xuống phía Nam. Thế là hàng ngàn xe tăng, thiết giáp của TĐ2 đã phơi phới bon bon trên những con đường bằng phẳng rộng mênh mông của xứ U, chạy hết tốc lực trên đoạn đường 800 cây số để luồn đằng sau thủ phủ Kiép, để hoàn thành cuộc hợp vây vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh. Chính nhờ có cú Ngoặt Xuống Phía Nam này, cùng với sự ương bướng không chịu rút lui của Stalin mới có một cuộc hợp vây có một không hai mà quân lực Đức QX mới thực hiện được với quân Liên Xô.

Mặc dù sau này các nhà nghiên cứu nói rằng đây là điều dở của Hitler khi rút mất lực lượng chính để rồi tấn công thủ đô Matcơva phải chịu thất bại sau đó. Nhưng đa số cho rằng Hitler đã đúng vì có một nhãn quan chiến lược, và như thế thì mới có một trận thắng vô tiền khoáng hậu. Gần một nửa lực lược Xô Viết với toàn là lực lượng ưu tú nhất đã ở trong rọ (3 triệu quân). Kết quả là quân Đức đã loại khỏi vòng chiến 7 TĐQ, tiêu diệt gần 50 sư đoàn với gần 1 triệu tù binh. Quân LX lúc đó chỉ có chạy và chạy...quân Đức chỉ có đuổi và đuổi, đưa quân Nga vào vòng vậy ở Crimê (xứ mà người Nga vừa sát nhập) .

Có một chuyện vui lúc đó là một đơn vị thám sát của Đức đến một vị trí tiền tiêu thì gặp Hồng quân LX. Vì chỉ là một nhóm thám báo vài người nên lính Đức định chuồn nhưng không kịp rồi. Quân Nga đông nghẹt đổ ra bắt giữ những chú lính Đức này và để...xin hàng. Thế là vài chú lính này đã dẫn hàng trăm lính và sĩ quan Nga về trại giam. Một chuyện vui thứ hai nữa là trên một mũi tấn công thọc sâu, một hạ sĩ quan Đức đã gặp một toán quân Nga xin đầu hàng. Đang cùng đoàn quân tiến công không có thời gian bắt tù binh, anh ta viết đại một tờ giấy tiếng Nga tào lao rằng đã xác nhận toán quân X này đầu hàng. Rồi ký tên và hành quân tiếp sau khi dặn toán lính Nga đợi ở đó. Hôm sau rảnh rỗi, anh ta được cấp trên cử đi xem tù binh thế nào. Thật tình thì chú hạ sĩ này chẳng hy vọng các tù binh còn ở đó đâu, nhưng anh ta thật bất ngờ khi thấy cả đơn vị tù binh hôm qua vẫn chờ ở đó để đợi làm....tù binh. Có thêm rất nhiều sĩ quan cùng lính của các đơn vị quân LX khác cũng nhập bọn chờ làm tù binh ở đó, chung quanh tờ giấy biên nhận đầu hàng tào lao của anh hạ sĩ Đức như đã nói ở trên.

Cuối tháng 9/1941 toàn bộ Phương diện quân bị bao vây và tan rã hoàn toàn. Ucraina rơi vào tay người Đức. Tư lệnh PDQ Ucraina thượng tướng M. P. Kirponos bị giết khi cố vượt vòng vây. Chính ủy Vtughin tự sát...Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina M. Burmistenko bị quân Đức bắt và xử bắn.

Trận thua trận kinh hoàng này đã khiến cho giới lãnh đạo Liên Xô khi đó khủng hoảng. Nên trước khi đánh bại đạo quân Đức tấn công về phía Moskva (bất thành), thì Đại Nguyên Soái J. Xtalin đã chuồn khỏi thủ đô cùng với thi hài của V. Lênine..

Mặc dù với người Đức thì chiến dịch Barbarossa đã không thành công theo bước đầu nhưng theo kế hoạchxét theo các tiêu chí ban đầu đầu không thành công như ý định bạ Nhưng rồi lại có chuyện Tái Ông mất ngựa. Chính vì sự thua trận kinh hồn đó đã rúng động phần còn lại của thế giới, nhất là ở Mỹ. Và thế là phong trào giúp Liên Xô đã thắng thế trong chính giới Mỹ. Ngay sau đó hàng ngàn xe tăng, pháo, hàng chục ngàn ô tô, thiết bị quân sự...được ào ào ạt chở đến Liên Bang Xô Viết để tiếp tục cuộc chiến. Để rồi trải qua 4 năm trời chiến đấu, bao hy sinh mất mát thì rồi người Nga cũng đã báo thù cho trận thua đầu tiên ấy bằng trận chiến thắng cuối cùng để có ngày Chiến Thắng 9/5/1945 đánh bại hoàn toàn nước Đức Quốc Xã.

Âu mọi sự trên đời đều đi theo số phận zích zắc không lường trước được của nó...

Mai Tú Ân

(FB. Mai Tú Ân)
23:30 Unknown
Nhân ngày ChiếnThắng Phát Xít Đức 9/5/1945, xin được nhắc lại một trân đánh lớn nhất lịch sử chiến tranh, giữa quân đội Đức Quốc Xã và quận đội Liên Xô trong CTTG 2 với thất bại chưa từng có của quân đội Liên Xô nên sử lề phải của ta hồi nào đến giờ vẫn che dấu và bưng bít...

Hitler và đoàn tùy tùng
Từ ngày 22/6/1941 đến cuối tháng 9/1941. Một cuộc thất trận lớn nhất và toàn diện nhất của quân đội Liên Xô trước quân đội Đức Quốc Xã vào thời điểm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức. Đây có thể nói là một cuộc thua trận có một không hai, lớn nhất trong lịch sử trong mọi thời kỳ. Với chiến trường rộng lớn, quân đội hai bên tham gia đông, thảm bại lớn nhất của quân đội LX, quân lực LX bị tiêu diệt nhiều nhất ( 600.000 ngườ), bị bắt nhiều tù binh nhiều nhất (gần 1 triệu tù binh), một vùng đất rộng mênh mông hầu như toàn bộ nước Ucraina ngày nay, cùng với Thủ Phủ Kiép (thủ đô Kiep bây giờ) rơi vào tay người Đức. Và đây cũng là thắng lợi vĩ đại nhất của quân đội Đức Quốc Xã...

Như các bạn đều biết trong thế chiến 2, Đức bất ngờ mở chiến dịch Barbarosa, tấn công vào Liên Xô ngày 22/6/1941. Đây cũng là một chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử hơn 5,5 triệu binh lính tấn công làm 3 mũi (Bắc, Trung Tâm và Nam) trên một diện tích rộng hàng ngày cây số. Và mũi thứ 3, Mũi Nam sẽ tấn công vào Ucraina, lúc này đang nằm trong LX. Mục tiêu chiếm thủ phủ Kiep.

Người Đức sử dụng chiến thuật blitzkrieg (chiến thuật tấn công chớp nhoáng) với lực lượng xe tăng làm nòng cốt để thọc sâu, hoặc hai mũi gọng kìm để hợp vây bức hàng đối phương. Chiến thuật này đã mang lại chiến thắng nhanh chóng ở các trận chiến với Ba Lan và Pháp và gây nên nỗi kinh hoàng cho cả thế giới lúc đó. Chỉ trừ Xtalin và những người cộng sản Liên Xô.

Để phòng thủ, Liên Xô đã phạm sai lầm đầu tiên khi đưa gần như tất cả các lực lượng manh nhất của họ lên tuyến đầu giáp với kẻ thù. Nhưng với chiến thuật xe tăng vận động chiến thì đó sẽ là miếng mồi ngon cho các sư đoàn xe tăng Đức hợp vây. Ngoài ra sự căm thù Xô Viết ở những vùng bắt đầu trận đánh là một phần xứ Ba Lan mà LX mới sát nhập, và toàn bộ xứ Ucraina. Cùng với việc đây hoàn toàn là vùng đồng bằng thảo nguyên với hê thống đường xá giao thông rất tốt thuận tiện cho các đơn vị xe tăng Đức hoạt động.

Sai lầm tiếp theo là bắt đầu cuộc chiến 1941, thay vì đối đầu với sức quá mạnh của đối phương, Liên Xô nên học bài học của chính nước Nga năm 1812. Năm đó, quân Pháp của Napoleon tấn công nước Nga Sa Hoàng, quân đội Nga theo lệnh tướng chột mắt Cutudop cứ dần dần rút lui tránh giao chiến với đại quân hùng mạnh của Pháp. Chỉ đến khi Sa hoàng bắt buộc thì Cutuzop phải buộc giao chiến và đã thảm bại ở Brodino. Sau đó quân Nga lại tiếp tục rút lui, bỏ cả thành phố Matscova lại cho quân Pháp. Với một sự tiếp viện dài lê thê hàng ngàn km từ Pháp, lại bị du kích quấy rối nên dần dần quân Pháp đại bại. Hoàng đế Napoleon phải bỏ đoàn quân chạy về Pháp, và nước Pháp thất trận từ đây. Napoleon bị đi đầy lần thứ nhất.

Nhưng năm 1941 này với danh hiệu đạo quân ưu tú, Hồng quân LX đã chấp nhận đối đầu với lực lượng Đức QX. Kết quả là LX đã bị một loạt trận đánh tao ngộ chiến, bao vây, bức hàng cùng một loạt thất bại thảm hại, với mỗi trận bị tiêu diệt, bị bắt sống hàng vạn tù binh (Tarnopon, Urman...) Cả ba mũi tấn công chính đều thu được thành công vang dội. Mũi phía Bắc quân Đức đã đến Lênilgrat. Mũi Trung Tâm đã đến cửa ngõ Matscva. Ở mũi Nam, các sư đoàn Đức ào ào xông vào vùng Ucraina rộng lớn như đi vào chỗ không người.

Đến đây thì cũng chưa phải thảm họa cuối cùng. Với một thế trận khi mũi quân Trung tâm của Đức đang tiến đánh Moskva nhanh như chẻ tre, tức là sườn phải của bị đe dọa như thế, với thế trận bị cụm quân Nam đánh như thế thì chỉ có rút lui thật nhanh mới tránh thảm họa. Nhưng mặc cho sự van nài của thượng tướng M. P. Kirponos, tư lệnh phương diện quân yêu cầu xin rút lui, Tổng tư lệnh Xtalin, cùng với đại tướng khét tiếng nướng quân Giucốp (giống bác Giáp nhà ta) lại chủ quan, cương quyết chống cự đến cùng.

Đến đây thì một sự kiện hoàn toàn mới. Mà giới viết sử chiến tranh thế giới gọi là :"Cú Ngoặt Xuống Phía Nam" nổi tiếng của A.Hitler. Quốc Trưởng Đức cũng đã bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn của các tướng tá, mà quyết định lấy bớt lực lượng mạnh nhất của mũi Trung Tâm là tập đoàn quân xe tăng 2 hùng mạnh của tướng tăng khét tiếng Guderian, cùng các lực lượng phụ thuộc mở một mũi đánh xuống phía Nam. Thế là hàng ngàn xe tăng, thiết giáp của TĐ2 đã phơi phới bon bon trên những con đường bằng phẳng rộng mênh mông của xứ U, chạy hết tốc lực trên đoạn đường 800 cây số để luồn đằng sau thủ phủ Kiép, để hoàn thành cuộc hợp vây vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh. Chính nhờ có cú Ngoặt Xuống Phía Nam này, cùng với sự ương bướng không chịu rút lui của Stalin mới có một cuộc hợp vây có một không hai mà quân lực Đức QX mới thực hiện được với quân Liên Xô.

Mặc dù sau này các nhà nghiên cứu nói rằng đây là điều dở của Hitler khi rút mất lực lượng chính để rồi tấn công thủ đô Matcơva phải chịu thất bại sau đó. Nhưng đa số cho rằng Hitler đã đúng vì có một nhãn quan chiến lược, và như thế thì mới có một trận thắng vô tiền khoáng hậu. Gần một nửa lực lược Xô Viết với toàn là lực lượng ưu tú nhất đã ở trong rọ (3 triệu quân). Kết quả là quân Đức đã loại khỏi vòng chiến 7 TĐQ, tiêu diệt gần 50 sư đoàn với gần 1 triệu tù binh. Quân LX lúc đó chỉ có chạy và chạy...quân Đức chỉ có đuổi và đuổi, đưa quân Nga vào vòng vậy ở Crimê (xứ mà người Nga vừa sát nhập) .

Có một chuyện vui lúc đó là một đơn vị thám sát của Đức đến một vị trí tiền tiêu thì gặp Hồng quân LX. Vì chỉ là một nhóm thám báo vài người nên lính Đức định chuồn nhưng không kịp rồi. Quân Nga đông nghẹt đổ ra bắt giữ những chú lính Đức này và để...xin hàng. Thế là vài chú lính này đã dẫn hàng trăm lính và sĩ quan Nga về trại giam. Một chuyện vui thứ hai nữa là trên một mũi tấn công thọc sâu, một hạ sĩ quan Đức đã gặp một toán quân Nga xin đầu hàng. Đang cùng đoàn quân tiến công không có thời gian bắt tù binh, anh ta viết đại một tờ giấy tiếng Nga tào lao rằng đã xác nhận toán quân X này đầu hàng. Rồi ký tên và hành quân tiếp sau khi dặn toán lính Nga đợi ở đó. Hôm sau rảnh rỗi, anh ta được cấp trên cử đi xem tù binh thế nào. Thật tình thì chú hạ sĩ này chẳng hy vọng các tù binh còn ở đó đâu, nhưng anh ta thật bất ngờ khi thấy cả đơn vị tù binh hôm qua vẫn chờ ở đó để đợi làm....tù binh. Có thêm rất nhiều sĩ quan cùng lính của các đơn vị quân LX khác cũng nhập bọn chờ làm tù binh ở đó, chung quanh tờ giấy biên nhận đầu hàng tào lao của anh hạ sĩ Đức như đã nói ở trên.

Cuối tháng 9/1941 toàn bộ Phương diện quân bị bao vây và tan rã hoàn toàn. Ucraina rơi vào tay người Đức. Tư lệnh PDQ Ucraina thượng tướng M. P. Kirponos bị giết khi cố vượt vòng vây. Chính ủy Vtughin tự sát...Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina M. Burmistenko bị quân Đức bắt và xử bắn.

Trận thua trận kinh hoàng này đã khiến cho giới lãnh đạo Liên Xô khi đó khủng hoảng. Nên trước khi đánh bại đạo quân Đức tấn công về phía Moskva (bất thành), thì Đại Nguyên Soái J. Xtalin đã chuồn khỏi thủ đô cùng với thi hài của V. Lênine..

Mặc dù với người Đức thì chiến dịch Barbarossa đã không thành công theo bước đầu nhưng theo kế hoạchxét theo các tiêu chí ban đầu đầu không thành công như ý định bạ Nhưng rồi lại có chuyện Tái Ông mất ngựa. Chính vì sự thua trận kinh hồn đó đã rúng động phần còn lại của thế giới, nhất là ở Mỹ. Và thế là phong trào giúp Liên Xô đã thắng thế trong chính giới Mỹ. Ngay sau đó hàng ngàn xe tăng, pháo, hàng chục ngàn ô tô, thiết bị quân sự...được ào ào ạt chở đến Liên Bang Xô Viết để tiếp tục cuộc chiến. Để rồi trải qua 4 năm trời chiến đấu, bao hy sinh mất mát thì rồi người Nga cũng đã báo thù cho trận thua đầu tiên ấy bằng trận chiến thắng cuối cùng để có ngày Chiến Thắng 9/5/1945 đánh bại hoàn toàn nước Đức Quốc Xã.

Âu mọi sự trên đời đều đi theo số phận zích zắc không lường trước được của nó...

Mai Tú Ân

(FB. Mai Tú Ân)
Nhà sử học Mỹ Leopold Von Ranke khuyên: "Phải viết lịch sử như nó đã xảy ra". Tuy nhiên điều này không đơn giản và dễ dàng như người ta vẫn thường nghĩ. "Điều đã xảy ra, điều chúng ta nhớ lại, điều chúng ta phục hồi, điều chúng ta kể lại thường rất khác nhau một cách đáng buồn, và những câu trả lời cho những câu hỏi của chúng ta thật khó tìm và có tìm được cũng rất nhọc nhằn" như lời của nhà sử học Bernard Lewis (What happened, what we recall, what we recover, what we relate are often sadly different, and the answers to our questions may be both difficult to seek and painful to find - "History remembered, recovered, invented", Bernard Lewis, tr.71)

http://aer-vietnamwar.weebly.com/uploads/2/7/9/4/27942803/4843784_orig.png
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Ngô Đình Diệm
Viết lịch sử như nó đã xảy ra là điều rất khó, thế nhưng những tài liệu của những người đương thời cũng giúp cho các nhà sử học tái hiện một giai đoạn lịch sử hay phác họa chân dung của các nhân vật đã đóng một vai trò nhất định trong giai đoạn lịch sử ấy. Nhà báo Stanley Karnow đã trực tiếp phỏng vấn Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Dinh Gia Long và nghe ông kể về cuộc gặp gỡ lịch sử giữa ông với Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi năm 1946:

“Ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt vào tháng 9 năm 1945 khi đi từ Sài gòn ra Huế để khuyên can Bảo Đại không nên hợp tác với ông Hồ Chí Minh. Họ đày ông lên một làng ở vùng cao nguyên gần biên giới Trung Quốc và ông đã suýt chết vì bệnh sốt rét nhưng may mắn được những người dân làng thuộc sắc dân thiểu số săn sóc cho đến khi hồi phục. Trong thời gian ở đây, ông được tin anh trai mình là ông Ngô Đình Khôi và con trai ông Khôi đã bị Việt Minh bắn chết. 6 tháng sau, ông được đưa về Hà Nội để gặp ông Hồ Chí Minh lần đầu tiên. 15 năm sau, khi gặp tôi (nhà báo Stanley Karnow) ở Dinh Gia Long ông Diệm mô tả một hình ảnh của ông Hồ với nhiều thiện cảm bằng giọng nhỏ nhẹ, môi ngậm một điếu thuốc lá. Ông Diệm nhớ lại rằng cuộc trò chuyện giữa ông và ông Hồ rất thẳng thắn:

Ông Diệm: Anh muốn gì ở tôi?

Ông Hồ Chí Minh: Tôi muốn ở anh điều anh luôn luôn muốn ở tôi – sự hợp tác của anh để giành độc lập. Chúng ta theo đuổi một điều giống nhau. Chúng ta phải chung sức với nhau.

Ông Diệm: Anh là một kẻ tội phạm đã đốt cháy và hủy hoại đất nước, và anh lại còn bắt giam tôi.

Ông Hồ Chí Minh: Tôi xin lỗi anh vì sự cố không may ấy. Khi quần chúng bị áp bức nổi dậy, những sai lầm là điều không thể tránh khỏi và những thảm kịch đã xảy ra. Nhưng tôi luôn tin rằng hạnh phúc của nhân dân sẽ bù đắp được hết những sai lầm ấy. Anh thù hận chúng tôi nhưng chúng ta hãy quên chuyện ấy đi.

Ông Diệm: Anh muốn tôi phải quên rằng những thuộc cấp của anh đã giết chết anh trai tôi?

Ông Hồ Chí Minh: Tôi chẳng biết gì hết về chuyện ấy. Tôi chẳng liên can gì đến cái chết của anh trai anh. Tôi cũng lấy làm tiếc về những điều thái quá ấy cũng giống như anh. Làm sao tôi có thể ra lệnh cho người ta làm việc ấy rồi giờ đây lại đưa anh tới đây? Không phải chỉ có vậy, tôi cho đưa anh tới đây để mời anh giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ của chúng tôi.

Ông Diệm: Anh trai tôi và con trai của anh ấy chỉ là hai trong hàng trăm người đã bị giết và hàng trăm người nữa bị phản bội. Làm sao anh dám mời tôi hợp tác với anh?

Ông Hồ Chí Minh: Tâm trí của anh hướng về quá khứ. Anh hãy nghĩ đến tương lai – giáo dục, cải thiện mức sống của người dân.

Ông Diệm: Anh nói mà không biết suy nghĩ. Tôi đấu tranh cho lợi ích của đất nước, nhưng tôi không thể bị chi phối bởi áp lực. Tôi là một người tự do.Tôi sẽ mãi mãi là một người tự do. Anh hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là một người sợ áp bức hay sợ chết không?

Ông Hồ Chí Minh: Anh là một người tự do.”
(Vietnam, a history, tr.216-217)

Nhân tiện cũng xin giới thiệu video clip về phát biểu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp của hai nhà lãnh đạo miền Nam và miền Bắc để có một sự so sánh.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm nói về Hiệp định Genève bằng tiếng Anh:




Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn bằng tiếng Pháp của phóng viên Pháp hồi năm 1964:



Nhận xét: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn chỉ kéo dài hơn 5 phút, Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người từng sống ở Pháp nhiều năm và từng phát biểu trong Đại hội của đảng Xã hội ở thành phố Tours - lại nhiều lần đặt câu sai ngữ pháp. Chẳng hạn:

- Thay vì nói: “ Plus la guerre SE PROLONGE... (Cuộc chiến càng kéo dài , ông Hồ Chí Minh lại nói: 'Plus la guerre PROLONGE...".

-Thay vì nói: “Ce SONT nos affaires intérieures, ca passera" (Đó là những vấn đề nội bộ của chúng tôi, điều đó sẽ qua đi...) thì ông Hồ Chí Minh lại nói: "C' EST nos affaires intérieures, ca passera...".

- Dùng thừa chữ: chỉ cần nói “EST-CE une idée qui vous parait intéressante?” (Có phải đó là một ý kiến hay ho đối với bạn?), ông Hồ Chí Minh lại nói: “EST-CE C’EST une idée qui vous parait intéressante?”

04:34 Unknown
Nhà sử học Mỹ Leopold Von Ranke khuyên: "Phải viết lịch sử như nó đã xảy ra". Tuy nhiên điều này không đơn giản và dễ dàng như người ta vẫn thường nghĩ. "Điều đã xảy ra, điều chúng ta nhớ lại, điều chúng ta phục hồi, điều chúng ta kể lại thường rất khác nhau một cách đáng buồn, và những câu trả lời cho những câu hỏi của chúng ta thật khó tìm và có tìm được cũng rất nhọc nhằn" như lời của nhà sử học Bernard Lewis (What happened, what we recall, what we recover, what we relate are often sadly different, and the answers to our questions may be both difficult to seek and painful to find - "History remembered, recovered, invented", Bernard Lewis, tr.71)

http://aer-vietnamwar.weebly.com/uploads/2/7/9/4/27942803/4843784_orig.png
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Ngô Đình Diệm
Viết lịch sử như nó đã xảy ra là điều rất khó, thế nhưng những tài liệu của những người đương thời cũng giúp cho các nhà sử học tái hiện một giai đoạn lịch sử hay phác họa chân dung của các nhân vật đã đóng một vai trò nhất định trong giai đoạn lịch sử ấy. Nhà báo Stanley Karnow đã trực tiếp phỏng vấn Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Dinh Gia Long và nghe ông kể về cuộc gặp gỡ lịch sử giữa ông với Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi năm 1946:

“Ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt vào tháng 9 năm 1945 khi đi từ Sài gòn ra Huế để khuyên can Bảo Đại không nên hợp tác với ông Hồ Chí Minh. Họ đày ông lên một làng ở vùng cao nguyên gần biên giới Trung Quốc và ông đã suýt chết vì bệnh sốt rét nhưng may mắn được những người dân làng thuộc sắc dân thiểu số săn sóc cho đến khi hồi phục. Trong thời gian ở đây, ông được tin anh trai mình là ông Ngô Đình Khôi và con trai ông Khôi đã bị Việt Minh bắn chết. 6 tháng sau, ông được đưa về Hà Nội để gặp ông Hồ Chí Minh lần đầu tiên. 15 năm sau, khi gặp tôi (nhà báo Stanley Karnow) ở Dinh Gia Long ông Diệm mô tả một hình ảnh của ông Hồ với nhiều thiện cảm bằng giọng nhỏ nhẹ, môi ngậm một điếu thuốc lá. Ông Diệm nhớ lại rằng cuộc trò chuyện giữa ông và ông Hồ rất thẳng thắn:

Ông Diệm: Anh muốn gì ở tôi?

Ông Hồ Chí Minh: Tôi muốn ở anh điều anh luôn luôn muốn ở tôi – sự hợp tác của anh để giành độc lập. Chúng ta theo đuổi một điều giống nhau. Chúng ta phải chung sức với nhau.

Ông Diệm: Anh là một kẻ tội phạm đã đốt cháy và hủy hoại đất nước, và anh lại còn bắt giam tôi.

Ông Hồ Chí Minh: Tôi xin lỗi anh vì sự cố không may ấy. Khi quần chúng bị áp bức nổi dậy, những sai lầm là điều không thể tránh khỏi và những thảm kịch đã xảy ra. Nhưng tôi luôn tin rằng hạnh phúc của nhân dân sẽ bù đắp được hết những sai lầm ấy. Anh thù hận chúng tôi nhưng chúng ta hãy quên chuyện ấy đi.

Ông Diệm: Anh muốn tôi phải quên rằng những thuộc cấp của anh đã giết chết anh trai tôi?

Ông Hồ Chí Minh: Tôi chẳng biết gì hết về chuyện ấy. Tôi chẳng liên can gì đến cái chết của anh trai anh. Tôi cũng lấy làm tiếc về những điều thái quá ấy cũng giống như anh. Làm sao tôi có thể ra lệnh cho người ta làm việc ấy rồi giờ đây lại đưa anh tới đây? Không phải chỉ có vậy, tôi cho đưa anh tới đây để mời anh giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ của chúng tôi.

Ông Diệm: Anh trai tôi và con trai của anh ấy chỉ là hai trong hàng trăm người đã bị giết và hàng trăm người nữa bị phản bội. Làm sao anh dám mời tôi hợp tác với anh?

Ông Hồ Chí Minh: Tâm trí của anh hướng về quá khứ. Anh hãy nghĩ đến tương lai – giáo dục, cải thiện mức sống của người dân.

Ông Diệm: Anh nói mà không biết suy nghĩ. Tôi đấu tranh cho lợi ích của đất nước, nhưng tôi không thể bị chi phối bởi áp lực. Tôi là một người tự do.Tôi sẽ mãi mãi là một người tự do. Anh hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là một người sợ áp bức hay sợ chết không?

Ông Hồ Chí Minh: Anh là một người tự do.”
(Vietnam, a history, tr.216-217)

Nhân tiện cũng xin giới thiệu video clip về phát biểu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp của hai nhà lãnh đạo miền Nam và miền Bắc để có một sự so sánh.

Thủ tướng Ngô Đình Diệm nói về Hiệp định Genève bằng tiếng Anh:




Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn bằng tiếng Pháp của phóng viên Pháp hồi năm 1964:



Nhận xét: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn chỉ kéo dài hơn 5 phút, Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người từng sống ở Pháp nhiều năm và từng phát biểu trong Đại hội của đảng Xã hội ở thành phố Tours - lại nhiều lần đặt câu sai ngữ pháp. Chẳng hạn:

- Thay vì nói: “ Plus la guerre SE PROLONGE... (Cuộc chiến càng kéo dài , ông Hồ Chí Minh lại nói: 'Plus la guerre PROLONGE...".

-Thay vì nói: “Ce SONT nos affaires intérieures, ca passera" (Đó là những vấn đề nội bộ của chúng tôi, điều đó sẽ qua đi...) thì ông Hồ Chí Minh lại nói: "C' EST nos affaires intérieures, ca passera...".

- Dùng thừa chữ: chỉ cần nói “EST-CE une idée qui vous parait intéressante?” (Có phải đó là một ý kiến hay ho đối với bạn?), ông Hồ Chí Minh lại nói: “EST-CE C’EST une idée qui vous parait intéressante?”

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Mười năm yên tĩnh 1957-1967 dường như chỉ là giả tạm. Bên dưới sự yên tĩnh đó, những đợt sóng ngầm của chiến tranh vẫn âm ỉ. Mâu thuẫn giữa Israel với các quốc gia Ả Rập láng giềng dâng cao trong một vài năm trước 1967. Các cuộc tấn công khủng bố của fedayeen[1] được Ai Cập hỗ trợ vào các trung tâm dân cư của Israel tiếp tục tiếp diễn.

sixdaywar

Mùa xuân năm 1967, phía Liên Xô cung cấp cho chính phủ Syria những tin giả là Israel đang chuẩn bị tấn công Syria; Syria thông báo cho Ai Cập. Ngày 22 tháng Năm, để đáp lại, Ai Cập tuyên bố ngoài việc yêu cầu quân Liên Hiệp Quốc rút lui khỏi Bán đảo Sinai, họ cũng sẽ đóng cửa Eo biển Tiran với tàu thuyền “mang cờ Israel hoặc chuyên chở vật liệu chiến lược”, bắt đầu từ ngày 23 tháng Năm.

Phát biểu trước Liên đoàn thương mại Ả Rập ngày 26 tháng Năm, Tổng thống Ai Cập là Gamal Abdel Nasser tuyên bố: “Nếu Israel dấn sâu vào các hoạt động thù địch chống lại Syria hay Ai Cập, thì trận chiến chống lại Israel sẽ là trận chiến toàn diện, không chỉ giới hạn ở biên giới Syria hay Ai Cập và mục tiêu cơ bản của chúng ta là hủy diệt Israel.”

Với những hành động gây hấn của Nasser, bao gồm việc phong tỏa Eo biển Tiran và triển khai quân đội tại Bán đảo Sinai, gây nên sức ép quân sự và kinh tế lên Israel, cùng với việc Hoa Kỳ còn đang trù trừ vì vướng vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, lãnh đạo quân sự Israel thấy rằng chỉ có một khả năng có thể xoay chuyển được tình thế là đánh phủ đầu. Nội các Israel nhóm họp ngày 23 tháng Năm quyết định mở cuộc tấn công nếu Eo biển Tiran không được mở trở lại ngày 25 tháng Năm. Lãnh đạo Israel quyết định là nếu như Hoa Kỳ không làm gì và Liên Hiệp Quốc án binh bất động, thì Israel phải tự hành động. Ngày 1 tháng Sáu, tướng Moshe Dayan được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng Israel. Israel đã sẵn sàng.

Tháng Sáu năm 1967, trong một kế hoạch quyết liệt nhằm hủy diệt Israel, quân đội Ả Rập thống nhất triển khai với số lượng lớn dọc các đường biên giới với Israel, trong khi Ai Cập đóng cửa Eo biển Tiran và Nasser yêu cầu Lực lượng Khẩn cấp Liên Hiệp Quốc (UNEF) rời Ai Cập. Để chuẩn bị cho cuộc chiến, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số 160 ngàn quân về Bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn (4 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe bọc thép và 1 sư đoàn cơ giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập và bốn lữ đoàn bọc thép độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh lính kỳ cựu từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng một phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 900-950 xe tăng, 1.100 xe bọc thép (APC) và hơn 1.000 khẩu pháo. Không quân Ai Cập được cho là lớn và hiện đại nhất trong số các quốc gia A Rập, với khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô, trong đó có nhiều máy bay MiG-21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Trong thời gian đó, Nasser tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên quân đội từ Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel.

Jordan chuẩn bị cho cuộc chiến với 9 lữ đoàn đóng ở Bờ Tây, gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với hai trung đoàn bọc thép tinh nhuệ tại Thung lũng Jordan. Khoảng 100 xe tăng và một sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên giới Jordan. Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter và MiG-21, cũng được chuyển về gần các căn cứ sát biên giới Jordan. Syria có 75 ngàn quân, chia làm 9 lữ đoàn, hỗ trợ bởi xe tăng và pháo binh để chuẩn bị cho cuộc chiến ở vùng Cao nguyên Golan. Chỉ huy vùng Bờ Tây của Jordan cam kết là “trong vòng 3 ngày chúng ta sẽ đến Tel Aviv”.

Về phía mình, quân Israel ra lệnh tổng động viên, bao gồm cả quân dự bị, gồm 264.000 người. Dù số quân đó không thể duy trì lâu dài, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc sống hàng ngày của đất nước, phóng viên Hoa Kỳ James Reston, trong New York Times ngày 23 tháng Năm năm 1967, nhận xét: “Về mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần, trang bị và năng lực nói chung, quân đội của Nasser và các lực lượng Ả Rập khác, không kể đến trợ giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người Israel…”.

Cuộc chiến tranh sáu ngày bắt đầu ngày 5 tháng Sáu. Lúc 7:45 sáng ngày 5 tháng Sáu, khi còi báo động vang lên trên toàn Israel cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở Chiến dịch Focus (Moked). Gần 200 chiếc máy bay phản lực cất cánh từ các sân bay Israel ào ạt tấn công các sân bay của Ai Cập. Cơ sở phòng không của Ai Cập rất yếu, không có sân bay nào được trang bị boong-ke bọc thép để bảo vệ máy bay. Máy bay của Israel bay ra Địa Trung Hải trước khi vòng lại hướng về Ai Cập. Trong khi đó, phía Ai Cập lại tự làm hại mình bằng cách đóng toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì họ sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái chiến trường Amer và Trung tướng Sidqi Mahmoud, đang trên đường từ al Maza tới Bir Tamada ở Sinai để gặp các chỉ huy tại đó.

Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đó cũng không làm tình hình thay đổi mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để tránh radar và bay dưới tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ. Các phi công Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa lực oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên phá đường băng để máy bay Ai Cập không cất cánh được, làm mồi cho các đợt không kích tiếp theo của máy bay Israel. Cuộc không kích thành công vượt mức, phá hủy gần như toàn bộ không quân Ai Cập ngay trên mặt đất. Hơn 300 máy bay Ai Cập bị phá hủy, hơn 100 phi công Ai Cập chết. Phía Israel mất 19 máy bay, phần lớn do trục trặc kỹ thuật, hay tai nạn. Cuộc không tập mang lại cho Israel ưu thế áp đảo trên không cho đến hết cuộc chiến.
mirage

mirage
Đội hình máy bay Mirage của Israel năm 1967.
Cùng ngày IAF đồng thời tấn công các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq. Tới tối, không quân Jordan bị xóa sổ, không quân Syria và Iraq bị thiệt hại nặng tới mức không còn khả năng chiến đấu. Sau hai ngày đầu chiến sự, Israel cho biết họ đã phá hủy 416 máy bay của phe A Rập, trong khi mất 26 máy bay.

Sau những thắng lợi mở đầu của không quân, Israel mở chiến dịch tấn công toàn diện trên bộ đánh chiếm Bờ Tây của Jordan ngày 7 tháng Sáu, Dải Gaza và Bán đảo Sinai từ Ai Cập ngày 8, và Cao nguyên Golan của Syria ngày 9.

Tuy mang tên Cuộc chiến Sáu ngày, song Israel đã thắng ngay trong ngày đầu tiên, trong vòng vài giờ đồng hồ. Tới ngày 11 tháng Sáu, các lực lượng Ả Rập buộc phải rút lui và tất cả các bên chấp nhận lời kêu gọi ngừng bắn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc theo Nghị quyết 235 và 236. Cuộc chiến kéo dài chỉ vỏn vẹn trong sáu ngày với thắng lợi tuyệt đối nghiêng về phía Israel: Israel giành được quyền kiểm soát một vùng đất rộng lớn gồm Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, Bờ Tây (gồm cả Đông Jerusalem), và một trong những lăng mộ thiêng liêng nhất của người Do Thái là “Bức tường phía Tây”[2] (The Western Wall) hay còn gọi là “Bức tường Than Khóc” (The Wailing Wall), đây là một phần của Đền Thờ còn lại sau cuộc chiến tranh với người La Mã năm 70.

Israel sau đó sát nhập Đông Jerusalem vào Tây Jerusalem và từ năm 1980 tuyên bố Jerusalem là thủ đô “vĩnh viễn và không bị chia cắt của Israel”. Việc này đã gây nhiều tranh cãi vì Đông Jerusalem vốn được cho là thủ đô đang được chờ đợi của đất nước Palestine tương lai.

Với kết quả này, lãnh thổ Israel rộng thêm được 7.099 km2 (2.743 mi2) gồm 5.879 km2 (2.270 mi2) của Bờ Tây (West Bank), 70 km² (27 mi2) của Đông Jerusalem (Israel đơn phương tuyên bố sáp nhập năm 1980), và 1.150 km² (444 mi2) của Cao nguyên Golan (Israel tự sáp nhập không tuyên bố chính thức); với một triệu người Ả Rập bị đặt dưới quyền kiểm soát của Israel trong các lãnh thổ mới chiếm được. Chiều sâu chiến lược của Israel kéo dài ra ít nhất 300 km về phía nam, và 20 km lãnh thổ đồi núi hết sức hiểm trở ở phía bắc, một lá bài an ninh hết sức quan trọng trong cuộc chiến tranh Yom Kippur sáu năm sau. Bằng Cuộc chiến Sáu ngày, Israel đã hoàn thành mỹ mãn ý đồ mở rộng phạm vi kiểm soát của người Do Thái tới hầu hết các vùng đất lịch sử của Israel mà Chủ nghĩa Zion đã theo đuổi ban đầu. Người dân Do Thái tin rằng Thượng Đế đã đứng về phía họ trong cuộc chiến này.

Đây là một phần trích từ cuốn sách Câu chuyện Do Thái: Từ Do Thái Giáo đến Nhà nước Israel Hiện đại của tác giả Đặng Hoàng Xa do Sách Thái Hà dự định xuất bản vào tháng 1/2015.

Đặng Hoàng Xa

——————-

[1] Từ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư, chỉ những người tử vì đạo (NBT).

[2] Bức tường phía Tây là một địa điểm tôn giáo thiêng liêng nhất của Do Thái giáo tọa lạc ở Phố cổ Jerusalem. Ở đây, có một phong tục thiêng liêng là việc viết một lời cầu nguyện trên một mảnh giấy và đặt mảnh giấy trong một khe hở tại một nơi nào đó trong bức tường. Hơn một nửa bức tường, gồm 17 hàng tường nằm ở bên dưới đường phố, có niên đại từ cuối thời kỳ Đền Thờ thứ hai, được xây dựng vào khoảng năm 19 TCN bởi Herod vĩ đại. Các lớp còn lại đã được bổ sung thêm từ thế kỷ 7 trở đi.

(Nghiên cứu Quốc tế)
16:00 Unknown
Mười năm yên tĩnh 1957-1967 dường như chỉ là giả tạm. Bên dưới sự yên tĩnh đó, những đợt sóng ngầm của chiến tranh vẫn âm ỉ. Mâu thuẫn giữa Israel với các quốc gia Ả Rập láng giềng dâng cao trong một vài năm trước 1967. Các cuộc tấn công khủng bố của fedayeen[1] được Ai Cập hỗ trợ vào các trung tâm dân cư của Israel tiếp tục tiếp diễn.

sixdaywar

Mùa xuân năm 1967, phía Liên Xô cung cấp cho chính phủ Syria những tin giả là Israel đang chuẩn bị tấn công Syria; Syria thông báo cho Ai Cập. Ngày 22 tháng Năm, để đáp lại, Ai Cập tuyên bố ngoài việc yêu cầu quân Liên Hiệp Quốc rút lui khỏi Bán đảo Sinai, họ cũng sẽ đóng cửa Eo biển Tiran với tàu thuyền “mang cờ Israel hoặc chuyên chở vật liệu chiến lược”, bắt đầu từ ngày 23 tháng Năm.

Phát biểu trước Liên đoàn thương mại Ả Rập ngày 26 tháng Năm, Tổng thống Ai Cập là Gamal Abdel Nasser tuyên bố: “Nếu Israel dấn sâu vào các hoạt động thù địch chống lại Syria hay Ai Cập, thì trận chiến chống lại Israel sẽ là trận chiến toàn diện, không chỉ giới hạn ở biên giới Syria hay Ai Cập và mục tiêu cơ bản của chúng ta là hủy diệt Israel.”

Với những hành động gây hấn của Nasser, bao gồm việc phong tỏa Eo biển Tiran và triển khai quân đội tại Bán đảo Sinai, gây nên sức ép quân sự và kinh tế lên Israel, cùng với việc Hoa Kỳ còn đang trù trừ vì vướng vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, lãnh đạo quân sự Israel thấy rằng chỉ có một khả năng có thể xoay chuyển được tình thế là đánh phủ đầu. Nội các Israel nhóm họp ngày 23 tháng Năm quyết định mở cuộc tấn công nếu Eo biển Tiran không được mở trở lại ngày 25 tháng Năm. Lãnh đạo Israel quyết định là nếu như Hoa Kỳ không làm gì và Liên Hiệp Quốc án binh bất động, thì Israel phải tự hành động. Ngày 1 tháng Sáu, tướng Moshe Dayan được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng Israel. Israel đã sẵn sàng.

Tháng Sáu năm 1967, trong một kế hoạch quyết liệt nhằm hủy diệt Israel, quân đội Ả Rập thống nhất triển khai với số lượng lớn dọc các đường biên giới với Israel, trong khi Ai Cập đóng cửa Eo biển Tiran và Nasser yêu cầu Lực lượng Khẩn cấp Liên Hiệp Quốc (UNEF) rời Ai Cập. Để chuẩn bị cho cuộc chiến, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số 160 ngàn quân về Bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn (4 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe bọc thép và 1 sư đoàn cơ giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập và bốn lữ đoàn bọc thép độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh lính kỳ cựu từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng một phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 900-950 xe tăng, 1.100 xe bọc thép (APC) và hơn 1.000 khẩu pháo. Không quân Ai Cập được cho là lớn và hiện đại nhất trong số các quốc gia A Rập, với khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô, trong đó có nhiều máy bay MiG-21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Trong thời gian đó, Nasser tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên quân đội từ Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel.

Jordan chuẩn bị cho cuộc chiến với 9 lữ đoàn đóng ở Bờ Tây, gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với hai trung đoàn bọc thép tinh nhuệ tại Thung lũng Jordan. Khoảng 100 xe tăng và một sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên giới Jordan. Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter và MiG-21, cũng được chuyển về gần các căn cứ sát biên giới Jordan. Syria có 75 ngàn quân, chia làm 9 lữ đoàn, hỗ trợ bởi xe tăng và pháo binh để chuẩn bị cho cuộc chiến ở vùng Cao nguyên Golan. Chỉ huy vùng Bờ Tây của Jordan cam kết là “trong vòng 3 ngày chúng ta sẽ đến Tel Aviv”.

Về phía mình, quân Israel ra lệnh tổng động viên, bao gồm cả quân dự bị, gồm 264.000 người. Dù số quân đó không thể duy trì lâu dài, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc sống hàng ngày của đất nước, phóng viên Hoa Kỳ James Reston, trong New York Times ngày 23 tháng Năm năm 1967, nhận xét: “Về mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần, trang bị và năng lực nói chung, quân đội của Nasser và các lực lượng Ả Rập khác, không kể đến trợ giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người Israel…”.

Cuộc chiến tranh sáu ngày bắt đầu ngày 5 tháng Sáu. Lúc 7:45 sáng ngày 5 tháng Sáu, khi còi báo động vang lên trên toàn Israel cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở Chiến dịch Focus (Moked). Gần 200 chiếc máy bay phản lực cất cánh từ các sân bay Israel ào ạt tấn công các sân bay của Ai Cập. Cơ sở phòng không của Ai Cập rất yếu, không có sân bay nào được trang bị boong-ke bọc thép để bảo vệ máy bay. Máy bay của Israel bay ra Địa Trung Hải trước khi vòng lại hướng về Ai Cập. Trong khi đó, phía Ai Cập lại tự làm hại mình bằng cách đóng toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì họ sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái chiến trường Amer và Trung tướng Sidqi Mahmoud, đang trên đường từ al Maza tới Bir Tamada ở Sinai để gặp các chỉ huy tại đó.

Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đó cũng không làm tình hình thay đổi mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để tránh radar và bay dưới tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ. Các phi công Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa lực oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên phá đường băng để máy bay Ai Cập không cất cánh được, làm mồi cho các đợt không kích tiếp theo của máy bay Israel. Cuộc không kích thành công vượt mức, phá hủy gần như toàn bộ không quân Ai Cập ngay trên mặt đất. Hơn 300 máy bay Ai Cập bị phá hủy, hơn 100 phi công Ai Cập chết. Phía Israel mất 19 máy bay, phần lớn do trục trặc kỹ thuật, hay tai nạn. Cuộc không tập mang lại cho Israel ưu thế áp đảo trên không cho đến hết cuộc chiến.
mirage

mirage
Đội hình máy bay Mirage của Israel năm 1967.
Cùng ngày IAF đồng thời tấn công các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq. Tới tối, không quân Jordan bị xóa sổ, không quân Syria và Iraq bị thiệt hại nặng tới mức không còn khả năng chiến đấu. Sau hai ngày đầu chiến sự, Israel cho biết họ đã phá hủy 416 máy bay của phe A Rập, trong khi mất 26 máy bay.

Sau những thắng lợi mở đầu của không quân, Israel mở chiến dịch tấn công toàn diện trên bộ đánh chiếm Bờ Tây của Jordan ngày 7 tháng Sáu, Dải Gaza và Bán đảo Sinai từ Ai Cập ngày 8, và Cao nguyên Golan của Syria ngày 9.

Tuy mang tên Cuộc chiến Sáu ngày, song Israel đã thắng ngay trong ngày đầu tiên, trong vòng vài giờ đồng hồ. Tới ngày 11 tháng Sáu, các lực lượng Ả Rập buộc phải rút lui và tất cả các bên chấp nhận lời kêu gọi ngừng bắn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc theo Nghị quyết 235 và 236. Cuộc chiến kéo dài chỉ vỏn vẹn trong sáu ngày với thắng lợi tuyệt đối nghiêng về phía Israel: Israel giành được quyền kiểm soát một vùng đất rộng lớn gồm Bán đảo Sinai, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, Bờ Tây (gồm cả Đông Jerusalem), và một trong những lăng mộ thiêng liêng nhất của người Do Thái là “Bức tường phía Tây”[2] (The Western Wall) hay còn gọi là “Bức tường Than Khóc” (The Wailing Wall), đây là một phần của Đền Thờ còn lại sau cuộc chiến tranh với người La Mã năm 70.

Israel sau đó sát nhập Đông Jerusalem vào Tây Jerusalem và từ năm 1980 tuyên bố Jerusalem là thủ đô “vĩnh viễn và không bị chia cắt của Israel”. Việc này đã gây nhiều tranh cãi vì Đông Jerusalem vốn được cho là thủ đô đang được chờ đợi của đất nước Palestine tương lai.

Với kết quả này, lãnh thổ Israel rộng thêm được 7.099 km2 (2.743 mi2) gồm 5.879 km2 (2.270 mi2) của Bờ Tây (West Bank), 70 km² (27 mi2) của Đông Jerusalem (Israel đơn phương tuyên bố sáp nhập năm 1980), và 1.150 km² (444 mi2) của Cao nguyên Golan (Israel tự sáp nhập không tuyên bố chính thức); với một triệu người Ả Rập bị đặt dưới quyền kiểm soát của Israel trong các lãnh thổ mới chiếm được. Chiều sâu chiến lược của Israel kéo dài ra ít nhất 300 km về phía nam, và 20 km lãnh thổ đồi núi hết sức hiểm trở ở phía bắc, một lá bài an ninh hết sức quan trọng trong cuộc chiến tranh Yom Kippur sáu năm sau. Bằng Cuộc chiến Sáu ngày, Israel đã hoàn thành mỹ mãn ý đồ mở rộng phạm vi kiểm soát của người Do Thái tới hầu hết các vùng đất lịch sử của Israel mà Chủ nghĩa Zion đã theo đuổi ban đầu. Người dân Do Thái tin rằng Thượng Đế đã đứng về phía họ trong cuộc chiến này.

Đây là một phần trích từ cuốn sách Câu chuyện Do Thái: Từ Do Thái Giáo đến Nhà nước Israel Hiện đại của tác giả Đặng Hoàng Xa do Sách Thái Hà dự định xuất bản vào tháng 1/2015.

Đặng Hoàng Xa

——————-

[1] Từ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư, chỉ những người tử vì đạo (NBT).

[2] Bức tường phía Tây là một địa điểm tôn giáo thiêng liêng nhất của Do Thái giáo tọa lạc ở Phố cổ Jerusalem. Ở đây, có một phong tục thiêng liêng là việc viết một lời cầu nguyện trên một mảnh giấy và đặt mảnh giấy trong một khe hở tại một nơi nào đó trong bức tường. Hơn một nửa bức tường, gồm 17 hàng tường nằm ở bên dưới đường phố, có niên đại từ cuối thời kỳ Đền Thờ thứ hai, được xây dựng vào khoảng năm 19 TCN bởi Herod vĩ đại. Các lớp còn lại đã được bổ sung thêm từ thế kỷ 7 trở đi.

(Nghiên cứu Quốc tế)
tin mới du lịch cô tô tin mới thiết bị camera cửa lưới chống muỗi cửa lưới chống muỗi tự cuốn thi công nội thất thiết kế nội thất loa đám cưới nhà nghỉ cô tô âm thanh hội trường báo online phiếu giảm giá gai goi ha noi gai goi sai gon gai goi cao cap gai goi cao cap ha noi gái gọi trần duy hưng gái gọi mỹ đình gái gọi kim liên chùa bộc danh sách gái gọi gái gọi cao cấp hà nội gái gọi sài gòn gái gọi hà nội gái gọi hà nội